Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 10 bài 1 vừa được VnDoc.com gửi tới bạn đọc. Nước Văn Lang ra đời mở ra lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. bất khuất đấu tranh giành độc lập. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán Nếu để tóm gọn so sánh giữa A Level và IB thì có thể nói A Level tập trung theo kiểu phân ban, tức là chuyên về một hướng ngành học trong tương lai với kết thúc là 3 môn học. Còn với IB, học sinh sẽ hoàn thành tổng cộng 6 môn học trong 2 năm, học sinh IB toàn diện hơn. Lựa Để so sánh các quy định của Luật Việt Nam và Luật Trung Quốc về các trình tự và thủ tục thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn, Công ty Cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: o Phương pháp so sánh. o Phương pháp đối chiếu. o So sánh nội dung chương trình giáo dục thể chất của học sinh Trung học Cơ sở Việt Nam và Trung Quốc KẾT LUẬN - Thông qua so sánh chương trình GDTC dành cho HS THCS của Trung Quốc và Việt Nam phản ánh có sự khác biệt khá lớn về nội dung, thành phần, thời lượng môn học cũng Môn học này được thiết kế gồm 3 chương cho sinh viên năm 3 hoặc năm 4 của Khoa Giáo dục. Môn học đi sâu vào phân tích và so sánh tình hình thực tiễn giáo dục của Việt nam với các quốc gia và giữa các quốc gia trên thế giới với nhau. Mặt khác, môn học sẽ giới thiệu Giáo dục trung quốc ngày nay - so sánh giáo dục trung quốc và việt nam. Thảo luận trong 'Khu vui chơi, giải trí, du lịch' bắt đầu bởi anbvietnam, 4/10/21. nRm6EC. Theo báo cáo hàng năm Open Doors của Viện Giáo dục Quốc tế IIE, số lượng du học sinh Việt Nam bậc đại học tại Hoa Kỳ tăng 18 năm liên tiếp, đóng góp gần 1 tỷ đô la cho nền kinh tế Mỹ. Đây là nền tảng cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của học sinh sinh viên Việt Nam đến hệ thống giáo dục của Mỹ. Liệu điều này có xuất phát từ sự khác biệt trong hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam không? Trong bài viết này sẽ phân tích rõ hơn về sự khác biệt và giải thích lý do vì sao nhiều gia đình muốn cho con mình đến Mỹ du học nhiều hơn. Bài viết này sẽ tập trung phân tích các trường công lập và tư thục tại Việt Nam theo chương trình giảng dạy của Việt Nam hơn là các trường quốc tế. Xuất phát từ nguyên nhân cách giảng dạy tại các trường quốc tế ở Việt Nam gần hơn với giáo dục của Mỹ hơn là các trường theo chương trình giảng dạy của Việt Nam. Tổng quan về hệ thống giáo dục Mỹ Trước khi bắt đầu chương trình giáo dục bậc cao, trẻ em tại Mỹ sẽ học Tiểu học và Trung học tổng cộng là 12 năm, được chia thành các bậc từ lớp 1 đến lớp 12. Khoảng 6 tuổi, trẻ em bắt đầu chương trình Tiểu học Elementary/Primary School, theo học khoảng 5-6 năm sau đó sẽ lên chương trình Trung học. Bậc Trung học Secondary School bao gồm 2 chương trình là Trung học cơ sở Middle/Junior High School và Trung học phổ thông High School. Mặc dù mỗi bang có thể áp dụng các hệ thống và chương trình giáo dục khác nhau nhưng mỗi bang đều cần đảm bảo 12 năm giáo dục bắt buộc. Mốc thời gian 12 năm là tương tự với Việt Nam. Tổng quan về hệ thống giáo dục Việt Nam Ở Việt Nam, hệ thống giáo dục phổ thông bao gồm Lớp Mẫu giáo cho trẻ từ 3- 6 tuổi Chương trình Tiểu học bao gồm 5 lớp từ lớp 1-5 Chương trình Trung học cơ sở bao gồm 4 lớp từ lớp 6-9 Chương trình Trung học phổ thông bao gồm 3 lớp từ lớp 10-12 Học sinh sẽ cần hoàn thành chương trình phổ thông gồm 12 năm giáo dục trước khi vào Cấp Đại học gồm Đại học và Cao đẳng So sánh sự khác biệt trong hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam Thời gian học Tại Mỹ, thời gian học ở các bậc học là Tiểu học 5 năm; Trung học cơ sở 3 năm; Trung học phổ thông 4 năm; Cao đẳng cộng đồng 2 năm; Đại học 4 năm; Thạc sĩ 2 năm; Tiến sĩ ít nhất 4 năm. Trong khi đó, thời gian học ở Việt Nam là Tiểu học 5 năm; Trung học cơ sở 4 năm; Trung học phổ thông 3 năm; Cao đẳng 3 năm; Đại học 4 – 6 năm; Thạc sĩ 2 năm. Phong cách giảng dạy Mặc dù những năm gần đây đã có những cải tiến, tuy nhiên tại Việt Nam, trọng tâm giảng dạy là chú tâm truyền đạt lý thuyết hơn là việc thảo luận trên lớp. Điều này có thể xuất phát từ quy mô sĩ số lớp học lớn từ 30-40 học viên, hầu hết là tại các trường công lập nên học sinh ít chủ động tương tác và đặt câu hỏi với giáo viên. Giáo viên Việt Nam cũng tập trung nhiều vào việc giảng dạy dựa trên sách giáo khoa bởi tính chất 1 số kì thi. Học sinh cũng hay được yêu cầu ghi nhớ các khái niệm, cấu trúc trong sách hoặc tài liệu. Trong khi đó ở Mỹ, bên cạnh việc dạy bài mới, giáo viên thường khuyến khích và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia và thảo luận trong lớp. Học sinh lắng nghe giáo viên nhưng cũng chủ động nói lên ý kiến ​và thảo luận các câu hỏi với giáo viên. Các em cũng có cơ hội mang kiến ​​thức trên lớp vào thực tế thông qua việc thực hiện các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm hoặc tham gia các chuyến đi thực tế. Ở các trường tư thục của Mỹ, sĩ số lớp học có thể chỉ là 10 học sinh. Quy mô lớp học nhỏ cũng góp phần cho phép học sinh tham gia nhiều hơn vào các bài học, dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc về mỗi chủ đề. Ngoài ra, trong các trường học ở Mỹ, giáo viên sẽ tích hợp tin tức thời sự vào chương trình giảng dạy nếu có thể. Học sinh cũng được khuyến khích thu thập tin tức để thảo luận trong các lớp học liên quan. Môn học và hoạt động ngoại khóa nói chung Trong chương trình giảng dạy tiếng Việt, học sinh bắt buộc phải học ba môn chính gồm Tiếng Anh hoặc các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh như tiếng Nhật, tiếng Pháp,… tùy vào chương trình của trường, Văn học Việt Nam và Toán cùng với 3 môn học thuộc khối Khoa học Tự nhiên và 3 môn học thuộc khối Khoa học Xã hội. Tùy theo các con chọn lựa khối nào, các con sẽ thi thêm Khoa học Tự nhiên Vật lý, Sinh học, Hóa học hoặc Khoa học Xã hội Địa lý, Lịch sử, Giáo dục Công dân phục vụ cho kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia. Do cường độ học tập của từng môn và độ khó của đề kiểm tra, đặc biệt là các kỳ thi tuyển sinh đầu vào cấp 2, cấp 3, đại học nên học sinh thường xuyên tham gia các lớp học thêm thêm ngoài giờ để hoàn thiện hơn kiến thức. Vì vậy, sinh viên thường không có thời gian để phát triển các kỹ năng mềm và tài năng cá nhân. Một số trường cung cấp các lớp Biểu diễn Nghệ thuật và Thể thao cho học sinh và yêu cầu chúng phải có, nhưng các lớp học không đa dạng. Ngược lại, nếu so sánh với hệ thống giáo dục Mỹ thì học sinh Mỹ có nhiều lựa chọn lớp học với các trình độ khác nhau phù hợp với chuyên môn và sở thích của họ. Học sinh ở Mỹ cũng được yêu cầu học ít nhất một năm mỗi môn Nghệ thuật Nghệ thuật Thị giác / Nghệ thuật Biểu diễn và Thể thao, cho con cơ hội khám phá thêm tài năng cá nhân hoặc nâng cao kỹ năng của mình. Kiểm tra và các kỳ thi Tại Việt Nam, điểm là cách đánh giá kết quả duy nhất của học sinh sau khi kết thúc một lớp học. Điểm đến từ bài tập về nhà, kiểm tra miệng đầu giờ, bài kiểm tra hàng tháng, và bài kiểm tra giữa kỳ và cuối kỳ. Nhìn chung, không có nhiều phản hồi của giáo viên cung cấp thông tin cho gia đình về kết quả học tập của học sinh trong lớp ngoài điểm số. Giáo viên thường chỉ phản hồi cho học sinh thông qua báo cáo của trường vào cuối năm học. Vì vậy, điều này đã tạo ra nhận thức và áp lực từ phía gia đình và học sinh trong việc đạt điểm cao ở trường. Với các bài học mới được dạy mỗi kỳ và độ khó của các kỳ thi, như đã thảo luận trước đó, học sinh cảm thấy áp lực khi đi học thêm ngoài giờ học để ghi nhớ bài tốt hơn và thực hành nhiều hơn. Ở Việt Nam vào cuối cấp 2, các con học sinh lớp 9 phải tham gia Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT. Kỳ thi gồm bài thi Toán, Ngữ Văn, 1 bài thi được chọn ngẫu nhiên. Đề thi ngẫu nhiên sẽ được Bộ Giáo dục và Đào tạo Hà Nội công bố trong tháng 3. Đối với bài kiểm tra Ngôn ngữ, học sinh có thể chọn trong số tiếng Anh, Pháp, Đức, Nhật và Hàn. Hệ thống kiểm tra này khác nhau tùy thuộc các vùng và cách tính điểm cũng khác. Ở lớp 12, học sinh phải tham dự Kỳ thi THPT Quốc gia, đủ điều kiện vừa là kỳ thi tốt nghiệp vừa là kỳ thi vào đại học. Học sinh phải dự thi ít nhất 4 bài thi gồm 6 môn học là Toán, Tiếng Anh, Ngữ văn, Tổ hợp Khoa học Tự nhiên hoặc Tổ hợp Khoa học Xã hội một bài thi tích hợp bao gồm Lịch sử, Địa lý và Giáo dục công dân. Điểm này này cho phép học sinh lựa chọn trường và ngành học của mình. Mỗi chuyên ngành khác nhau của mỗi trường cao đẳng tại Việt Nam có một mức điểm chuẩn khác nhau. Hệ thống kiểm tra này có sự khác biệt đáng kể so với các trường học ở Mỹ. Ở Mỹ, hầu hết các trường đánh giá thành tích dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như tham gia lớp học, các câu đố, bài tập về nhà và bài kiểm tra cuối khóa, ngoài bài kiểm tra cuối khóa. Học sinh cũng có cơ hội kiếm thêm tín chỉ để nâng cao điểm trung bình GPA của mình. Về việc nhập học vào trường học và đại học ở Mỹ, điểm thi tiêu chuẩn của SSAT, SCT và/hoặc ACT sẽ được xem xét. Gần đây, hầu hết các trường học và cao đẳng đã trở thành bài thi không bắt buộc. Do đó, các cán bộ tuyển sinh đánh giá học sinh dựa trên thư giới thiệu của giáo viên, phát biểu cá nhân, tham gia các hoạt động ngoại khóa, thể hiện sự quan tâm và “sự phù hợp” của các con với trường. Công nghệ dạy học Ở Việt Nam, chỉ một số trường công lập và tư thục được tiếp cận thường xuyên với máy chiếu để thuyết trình. Viết trên bảng đen vẫn là phương pháp phổ thông nhất. Trong khi đó, so sánh với hệ thống giáo dục tại Mỹ, nơi công nghệ giáo dục như Google Slides, PowerPoint Presentation, máy chiếu và bảng trắng kỹ thuật số được sử dụng phổ biến trong giảng dạy, thảo luận, giải câu hỏi. Để giao tiếp giữa giáo viên và học sinh trong và ngoài lớp học, các trường học ở Hoa Kỳ thường triển khai Hệ thống quản lý học tập LMS – Learning Management Systems hoặc dùng LMS khác như Canvas, Moodle, Google Classroom,… Tổng kết Nhìn chung khi so sánh hệ thống giáo dục Mỹ và Việt Nam, ta có thể thấy Giáo dục Việt Nam tập trung vào thành tích và điểm số hơn hệ thống giáo dục Mỹ. Điều này xuất phát bởi nhiều yếu tố hoặc quan niệm. Các bậc cha mẹ Việt Nam có thể hơi khắt khe về mặt kỳ vọng nếu nói đến lĩnh vực học tập. Hệ thống giáo dục Mỹ tập trung nhiều hơn vào việc đạt được nền giáo dục toàn diện, nơi học sinh có thể được trang bị kiến ​​thức tốt nhất có thể, đồng thời phát triển tài năng cá nhân và các kỹ năng cần thiết cho tương lai của họ. Tuy nhiên, Phụ huynh Việt Nam đã ngày càng cởi mở hơn về sự trưởng thành và phát triển của học sinh, thể hiện qua sự phổ biến ngày càng tăng của sinh viên Việt Nam đi du học. Với tình hình đại dịch COVID-19, các trường học cũng đã triển khai được các công nghệ học tập từ xa tiên tiến trong khi học sinh được yêu cầu thực hành cách xa xã hội. Vậy nên chắc chắn 1 điều là sau đại dịch, giáo viên sẽ có nhiều khả năng ứng dụng công nghệ vào phương pháp giảng dạy của mình hơn. Nhìn chung, đây là thực trạng đáng mừng khi nhận thấy những thay đổi trong tương lai của nền giáo dục Việt Nam với sự tích hợp các tư tưởng giáo dục từ các nước phương Tây. Theo Những năm gần đây, Trung Quốc đang được quan tâm bởi một nền giáo dục và đào tạo chất lượng cao và thực sự thiết thực với tình hình phát triển ở Việt Nam. Trung Quốc từ lâu đã được biết đến là một trong những nước có nền văn hoá đồ sộ và lâu đời nhất thế giới. Giờ đây, Trung Quốc lại được nhiều người biết đến như một nền kinh tế và kỹ thuật trên đà phát triển mạnh mẽ và một nền giáo dục và đào tạo chất lượng cao và thực sự thiết thực với tình hình phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam. Do đó, ngày càng nhiều học sinh – sinh viên Việt Nam đến du học tại Trung Quốc Giáo dục Trung Quốc được chia thành các cấp học như sau – Mẫu giáo 3 năm – Bậc tiểu học 6 năm – Bậc trung học cơ sở 3 năm – Bậc trung học phổ thông 3 năm – Cao đẳng và đại học 4-5 năm – Cao học 2-3 năm – Tiến sỹ 3 năm So sánh sơ đồ Giáo dục Trung Quốc với Việt Nam Chính sách tuyển sinh sinh viên quốc tế của các trường đại học và học viện ở Trung Quốc được bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ 20. Trong hơn 50 qua, Trung Quốc đã luôn chào đón và tạo điều kiện tốt nhất cho du học sinh quốc tế nhất là sinh viên đến từ Việt Nam. Ban đầu, du học sinh quốc tế lưu học tại Trung Quốc phải học tiếng, đạt trình độ tương đương HSK 5-6 Chuẩn kiểm tra Hán Ngữ quốc gia của Trung Quốc. Khi đã đạt cấp độ 5-6 HSK tiếng Trung, cùng với văn bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông hay bằng Đại học của ViệtNam, lưu học sinh có thể nộp đơn xin vào học 1 chuyên ngành Đại học hay sau Đại học và sẽ được nhận vào học mà không phải thi đầu vào. 1 Giáo dục mẫu giáo Dành cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi tại các nhà trẻ. 2 Giáo dục tiểu học Dành cho học sinh từ 6 đến 11 tuổi. Các trường tiểu học thường do chính quyền các địa phương điều hành và được miễn phí. Tuy nhiên, cũng có một số trường tư do các doanh nghiệp và các cá nhân điều hành. 3 Giáo dục phổ thông Dành cho học sinh từ 12 đến 17 tuổi. Các trường phổ thông chủ yếu do chính quyền địa phương điều hành. Các trường phổ thông do nhà nước điều hành bao gồm trường sơ trung và cao trung, cả hai hệ đều kéo dài 3 năm. Sinh viên không bắt buộc phải học cao trung và phải trả khoản học phí nhỏ cho chương trình này. Các trường phổ thông tư thường có chương trình giáo dục chuyên và có xu hướng thiên về dạy nghề nhưng bằng cấp của các trường này được coi là tương đương với các trường công lập. Các sinh viên tốt nghiệp từ các trường chuyên thường có khả năng đỗ đại học cao hơn. Sinh viên tốt nghiệp từ các trường sơ trung thường vào học tại các trường cao trung. Tuy nhiên, có một số sinh viên chọn học tại các trường dạy nghề hoặc trường phổ thông chuyên trong thời gian 3 đến 5 năm. 4 Giáo dục đại học và dạy nghề Đối với chương trình đại học, có các khoá học nghề cũng như các khoá học cấp bằng đại học, sau đại học, và tiến sỹ. Sinh viên theo học cử nhân sẽ học trong vòng 4-5 năm, chương trình Thạc sỹ kéo dài 2-3 năm va tiến sỹ trong 3 năm. Giáo dục đại học do các trường đại học, cao đẳng, các viện và các trường cao đẳng nghề đảm nhiệm. Các cơ sở đào tạo này thực hiện các nghiên cứu khoa học và học thuật, cung cấp các dịch vụ xã hội và các các khoá học cho sinh viên. Để vào trường đại học hay cao đẳng, các sinh viên cần thi đại học – thường diễn ra vào tháng Bảy hàng năm. Việc sinh viên đỗ đại học hay không tuỳ thuộc vào số lượng thí sinh tham dự kì thi đại học và điểm của bài thi, vì vậy vào được đại học đối với sinh viên Trung Quốc cũng là sự cạnh tranh khá lớn. Những sinh viên không đỗ đại học có thể vào các trường cao đẳng tư nếu muốn tiếp tục việc học tập. Học tập tại các trường cao đẳng này thường đắt đỏ hơn các trường đại học công lập. Các sinh viên không có điều kiện học đại học, cao đẳng có thể trau dồi kiến thức cho mình thông qua quá trình làm việc. Giáo dục đại học ở Trung Quốc rất phát triển trong những năm vừa qua với hơn 2000 trường đại học và cao đẳng cấp các loại bằng cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ. Cách đây hơn 50 năm, Trung Quốc đã chấp nhận học sinh nước ngoài tới học tập. Trong số hơn 2000 trường đại học và cao đẳng, hơn 300 trường hiện có sinh viên nước ngoài theo học. Chương trình dành cho sinh viên nước ngoài bao gồm 2 năm học cấp ba, chương trình đào tạo lấy bằng cử nhân cao đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ; chương trình không cấp bằng và chương trình đào tạo ngôn ngữ. Tất cả các trường đại học và cao đẳng có sinh viên nước ngoài cung cấp các điều kiện tốt nhất cho sinh viên ăn, ở ngay tại trường hoặc gần trường . Các sinh viên nước ngoài sống ở Trung Quốc có thể sống ở ngoài khuôn viên của trường tuỳ theo nguyện vọng. Các chương trình học bổng thường chương trình trao đổi song phương, và các sinh viên thường xin học bổng qua chính phủ. Các sinh viên cũng có thể nộp trực tiếp cho trường đại học hoặc cao đẳng mà mình muốn học tập tại đó. Hội thảo diễn ra trong 2 ngày từ ngày 18 - 19/12/2021 theo hình thức trực tuyến, nhằm tạo diễn đàn kết nối các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc trong và ngoài nước trao đổi những vấn đề, xu hướng nghiên cứu đang phát triển nhất hiện nay; thúc đẩy đổi mới trong giáo dục tiếng Trung Quốc tại Việt Nam. Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội – ông Lương Ngọc Minh khẳng định Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có mối quan hệ đặc biệt, có tình hữu nghị sâu sắc, có sự giao lưu hợp tác chặt chẽ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục. Tại Việt Nam, số người học tiếng Trung Quốc ngày càng nhiều. Trong đó, Trường Đại học Hà Nội là trường giảng dạy ngoại ngữ hàng đầu ở Việt Nam; khoa tiếng Trung Quốc với tuổi đời trên 60 năm đã đào tạo ra hàng chục ngàn sinh viên tiếng Trung Quốc cung cấp cho xã hội. Đặc biệt trong những năm gần đây, số lượng thí sinh tham dự kì thi HSK, HSKK tại Điểm thi Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội cũng không ngừng tăng nhanh. Hội thảo khoa học quốc tế “Giáo dục tiếng Trung Quốc quốc tế trong thời đại mới” có ý nghĩa thúc đẩy việc nâng cao trình độ giảng dạy tiếng Trung Quốc tại Việt Nam. Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hà Nội – ông Lương Ngọc Minh Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Nam Tú cho biết hiện nay, Việt Nam là 1 trong 10 nước có số lượng lưu học sinh đông nhất tại Trung Quốc khoảng người. Số lưu học sinh Trung Quốc học tập, nghiên cứu tại Việt Nam cũng ngày càng tăng, khoảng trên người. Tại Việt Nam hiện có hơn 30 cơ sở giáo dục đại học đào tạo chuyên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc, có 27 chương trình liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục Trung Quốc và Việt Nam được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép. Cùng với đó là sự giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và trao đổi học thuật của các học giả – những người quan tâm vun đắp cho sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ văn hoá Trung Quốc - ngày một nhiều hơn, góp phần tích cực cho việc tăng cường mối quan hệ giao lưu hợp tác, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy tiếng Trung Quốc và tìm hiểu văn hoá Trung Hoa giữa các nước trong khu vực trong thời kỳ hội nhập. Vì thế, theo ông Tú, hội thảo giúp cho các học giả, giáo viên dạy tiếng Trung Quốc tại Việt Nam có cơ hội giao lưu, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm. Tại hội thảo, các đại biểu đã nghe và thảo luận 6 báo cáo về Chương trình đào tạo và hiện trạng giảng dạy tiếng Trung Quốc tại Khoa tiếng Trung Quốc, Trường Đại học Hà Nội TS Đinh Thị Thanh Nga, Khoa tiếng Trung Quốc, Trường Đại học Hà Nội; Vấn đề tam giáo trong việc giảng dạy tiếng Trung Quốc ở nước ngoài Furukawa Yutaka, Trường Đại học Osaka, Nhật Bản; Những thách thức và cơ hội trong việc giảng dạy tiếng Trung Quốc ở Thái Lan trong bối cảnh đại dịch Covid-19 Pornpan Juntaronanont, Trường Đại học Krirk, Thái Lan; Nghiên cứu về giáo dục tiếng Trung Quốc quốc tế trong đại dịch Covid-19 Zhao Yan Hua, Trường Đại học Sư phạm Quảng Tây, Trung Quốc; Thực trạng và triển vọng về giảng dạy tiếng Trung Quốc bậc Phổ thông ở Việt Nam Nguyễn Hoàng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN; Những thay đổi trong kỳ thi năng lực Hán ngữ quốc tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19 TS Li Pei Ze, Công ty TNHH Khoa học Kỹ thuật Hán khảo Quốc tế, Trung Quốc. Ngoài ra, còn có phiên làm việc của 6 tiểu ban. Trong đó tiểu ban 1 với chủ đề “Biên phiên dịch và Giáo dục tiếng Trung Quốc trong thời đại mới” gồm 5 báo cáo trao đổi thông tin, nghiên cứu xung quanh việc biên soạn giáo trình, kĩ năng biên phiên dịch Việt - Trung và xu hướng phát triển giảng dạy tiếng Trung Quốc trong thời đại mới. Tiểu ban 2 với chủ đề “Văn tự, Văn học và Văn hoá” gồm 4 báo cáo trao đổi thông tin, nghiên cứu về đối chiếu văn tự, văn học của Việt Nam và Trung Quốc, đưa ra các phương pháp giảng dạy dưới góc nhìn văn hoá và tình hình học chữ Hán của học sinh, sinh viên Việt Nam. Tiểu ban 3 với chủ đề “Ngữ pháp tiếng Trung Quốc” gồm 5 báo cáo trao đổi thông tin, nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Trung Quốc, đặc biệt là các thể loại từ trong ngôn ngữ Trung Quốc. Ngoài ra còn đề cập tới quá trình thụ đắc ngôn ngữ của học sinh, sinh viên Việt Nam. Tiểu ban 4 với chủ đề “Giáo trình tiếng Trung Quốc” gồm 4 báo cáo trao đổi thông tin, nghiên cứu về việc biên soạn giáo trình ngôn ngữ Trung Quốc, văn hoá Việt Nam bằng tiếng Trung Quốc, ảnh hưởng của giáo trình đến trình độ ngoại ngữ của sinh viên Việt Nam. Tiểu ban 5 với chủ đề “So sánh ngôn ngữ Việt - Trung” gồm 4 báo cáo trao đổi thông tin, nghiên cứu so sánh đối chiếu từ vựng, ngữ pháp trong hai ngôn ngữ Việt - Trung dưới góc độ ngôn ngữ học so sánh. Tiểu ban 6 với chủ đề “Học và Dạy tiếng Trung Quốc” gồm 5 báo cáo trao đổi thông tin, nghiên cứu về các phương pháp học tập và giảng dạy tiếng Trung Quốc ở các trường Đại học tại Việt Nam, đưa ra các đề xuất, kiến nghị về phương pháp học tập và phương pháp giảng dạy để việc Học và Dạy tiếng Trung Quốc thu được kết quả tốt hơn. Trước đó, chiều ngày 18/12/2021, trong khuôn khổ của Hội thảo đã diễn ra buổi Tọa đàm Tiến sĩ và Nghiên cứu sinh “Tân Hán học” Giáo dục tiếng Trung Quốc quốc tế và phát triển xã hội với sự tham gia của một số Nghiên cứu sinh, Tiến sĩ đã và đang nhận học bổng “Chương trình Tân Hán học” tên viết tắt là “CSP”. Minh Ánh Cô gái Đà Lạt tốt nghiệp xuất sắc ở ngôi trường toàn 'học bá' Trước khi trở thành nghiên cứu sinh chuyên ngành Chính trị học ở Đại học California, San Diego Mỹ với suất học bổng 7 tỷ đồng, Phạm Thị Thuỳ Dương SN 1996 tốt nghiệp xuất sắc tại Đại học Bắc Kinh Trung Quốc. Từ Thụy Sĩ đến Cambridge Trung Quốc’ Doanh Thị Kim Ngân, 26 tuổi, sinh ra và lớn lên tại TP. Cao Bằng vừa giành học bổng thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh tại ĐH Bắc Kinh Trung Quốc sau 2 năm đi làm. Ngày nay, Trung Quốc là một cường quốc trên Thế giới. Có rất nhiều học sinh, sinh viên chọn đất nước này làm điểm đến để du học. Chính sự phát triển về giáo dục đã thúc đẩy đất nước này trở nên ngày càng giàu mạnh. Vậy nền giáo dục của họ có những gì khác với Việt Nam, hãy cùng QTEDU tìm hiểu nhé! GIÁO DỤC TRUNG QUỐC HIỆN NAYSO SÁNH GIÁO DỤC VIỆT NAM – TRUNG QUỐCNỀN GIÁO DỤC TRUNG QUỐC ẢNH HƯỞNG BỞI NHO GIÁO GIÁO DỤC TRUNG QUỐC HIỆN NAY Đây là một đề tài nhận được sự quan tâm đặc biệt của nhiều người dân Việt Nam, nhất là các bậc phụ huynh và học sinh. Ngày nay, khi tìm kiếm trên các trang mạng thì lại hiện ra rất nhiều nguồn thông tin về du học Trung Quốc, điển hình là các loại học bổng toàn phần. Đây cũng là một điều mà ít nước nào có được. Bên cạnh đó, các trường Đại học tại Trung Quốc cũng thiết lập nhiều mối quan hệ với nhiều trường hàng đầu trên Thế giới. Thúc đẩy việc học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên. SO SÁNH GIÁO DỤC VIỆT NAM – TRUNG QUỐC Hai nền giáo dục có nhiều nét tương đồng. Ví du như Cả hai nước đều ưu tiên cho chất lượng đào tạo để trong tương lai, giới trẻ sẽ là nguồn lực chính phát triển đất nước. Bên cạnh đó, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” cũng luôn được đề cao tại Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, nền giáo dục hai quốc gia Trung Quốc và Việt Nam có những đặc điểm khác biệt cơ bản Hệ thống giáo dục của Trung Quốc bao gồm 3 bậc trong khi Việt Nam có tổng cộng 6 bậc. Kỳ thi Đại học đối với học sinh Trung Quốc là rất khắc nghiệt. Học sinh phải thi “cao trung” – kỳ thi cho là khó nhất Thế giới. Ở Việt Nam, muốn vào trường Đại học công lập lại không quá khắt khe. Tuy nhiên, nếu bạn là sinh viên quốc tế muốn học tập tại Trung Quốc thì chỉ cần bảng điểm THPT của bạn thuộc loại Khá, bạn có thể nộp đơn vào các trường công lập của Trung Quốc. NỀN GIÁO DỤC TRUNG QUỐC ẢNH HƯỞNG BỞI NHO GIÁO Nho giáo do Khổng Tử sáng lập đã mang lại cho giáo dục Trung Quốc những nét đẹp được truyền cho đến những đời sau Truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Tính chịu khó và siêng năng trong việc học tập, làm việc. Luôn đặt đất nước, gia đình, người thân lên trên bản thân. Luôn mong muốn được cống hiến cho đất nước, không màng lợi danh. Trong suốt quá trình phát triển, giáo dục của Trung Quốc luôn chịu ảnh hưởng bởi Nho giáo. Tuy nhiên, chính vì điều này đã làm cho họ được đề cao và ngưỡng mộ . Có thể nói, Nho giáo là nền tảng cốt lõi tạo nên sự vững chắc của giáo dục Trung Quốc. Tìm hiểu thêm thông tin mới tại đây QTEDU chúc bạn học tiếng Trung vui vẻ và đạt hiệu quả cao! QTEDU- 学而优 Anh quốc có một nền giáo dục lâu đời đậm chất "Hoàng gia", tuy nhiên cũng không kém phần hiện đại và tiên tiến. Tại Anh, hệ thống giáo dục được linh hoạt hơn rất nhiều với nhiều bậc học và thời gian học khác nhau. Tại Anh, hệ thống giáo dục không có bậc học Trung học cơ sở mà chỉ có Tiểu học từ 5-10 tuổi và Trung học phổ thông từ 11-15 tuổi. Sau Trung học phổ thông là các bậc học nâng cao với nhiều sự lựa chọn đa dạng cho sinh viên dự bị đại học, chứng chỉ A, Tú tài quốc tế với những kế hoạch tương lai của mình. Bậc học đại học và thạc sĩ cũng được rút ngắn hơn so với hệ thống giáo dục tại Việt Nam Đại học 3 năm, thạc sĩ 1 - 1,5 năm.Bạn đang xem So sánh hệ thống giáo dục anh và việt namDưới đây là bảng so sánh về hệ thống giáo dục ở Việt Nam và AnhNhư vậy, nhìn tổng quan vào hệ thống giáo dục Anh, chúng ta có thể thấy được theo đuổi xong hệ thống này thì sinh viên ra trường sẽ sớm hơn so với ở Việt Nam ít nhất 2 năm. Đây cũng là cơ hội để có thể giúp sinh viên trải nghiệm thực tế sớm hơn và có thể có những công việc nhanh hơn so với hầu hết các bạn sinh viên trên thế giới. Chương trình phổ cập giáo dục ở Anh dành cho học sinh từ 5-16 tuổi. Ở bậc học này có 2 loại trường Trường công lập và trường tư nhân. Cả 2 loại trường đều chuẩn bị cho học sinh lấy bằng THPT GCSE/ IGCSE hay chứng chỉ giáo dục Scotland SCE. Chứng chỉ GCSE của từng môn có thang điểm từ A* là cao nhất đến G là thấp số điều cần biếtTrường công lập được nhà nước cung cấp giáo dục miễn phí. Các trường công lập thường không nhận học sinh quốc tế. Trường tư thục nhận học sinh quốc tế học tập nội trú. Học phí bao gồm cả tiền học, tiền ăn ở, sách vở, đồ dùng học tập và các nhu cầu cơ bản khác như thể thao, âm khi đã lấy chứng chỉ GCSE với điểm số từ A* đến C ở 5 môn học trở lên, học sinh tiếp tục học lên chương trình Dự bị Đại học. Các khóa học phổ biến gồmChứng chỉ A Levels kéo dài 18-24 tháng Đây là khóa học được nhiều học sinh Anh và quốc tế lựa chọn để được vào các trường Đại học ở Anh xét tuyển. Học sinh lớp 10, 11 và 12 của VN có kết quả học tập khá và có khả năng tiếng Anh có thể đăng ký học A Levels. Đây là con đường truyền thống để vào đại học ở tài Quốc tế IB International Baccalaureate Đây là chương trình 2 năm có thể thay thế cho Chương trình A-level và được công nhận để xét tuyển đầu vào bậc đại học ở Vương quốc Anh. Bạn phải học ba môn ở mức độ chuyên sâu Higher level và ba môn ở mức độ tiêu chuẩn Standard level, hoàn thành môn Lý thuyết về tri thức Theory of Knowledge, viết một bài luận và tham gia vào một khoá học có tên gọi Creativity, Action and Service. Tiếng Anh, được coi là ngoại ngữ và Toán là môn bắt buộc ở mức độ chuyên sâu hoặc mức độ tiêu chuẩn. Hiện nay, có hơn 130 trường ở Vương quốc Anh dạy khóa Tú tài quốc tếHigher National Diploma Đây là một chứng chỉ quốc gia – một bằng cấp giáo dục đại học của Vương quốc Anh – một khóa học liên quan trực tiếp đến kỹ năng nghề nghiệp được cung cấp bởi các trường và tổ chức giáo dục của Vương quốc Anh. Khóa học HND toàn thời gian phải mất hai năm để hoàn thành, hoặc 3-4 năm bán thời gian. Khóa HND tương đương với năm thứ hai của chương trình đại học. Tuy nhiên, kiến thức và kỹ năng đạt được sẽ ở mức độ cao và sâu hơn so với năm thứ 2 của khóa đại học. Sinh viên được đào tạo gắn với thực tế trong môi trường công việc để có thể tự tin làm việc. Hoàn thành khóa HND sinh viên hoàn thành NQF Level viên quốc tế nếu không học các chứng chỉ trên thì có thể học 1 trong 2 khóa học sau để được nhận vào học Đại Course cho phép xóa bỏ khoảng cách giữa những văn bằng bạn đã đạt được trong nước với những yêu cầu đầu vào của các khóa học bậc đại học ở Vương quốc Anh. Khóa học này kéo dài 1 năm. Khóa học này có tại nhiều trường bao gồm các trường cao đẳng công lập và tư thục và một số trường đại học liên kết với các tổ chức giáo dục tư Course 1 số trường cung cấp khóa học Diploma. Khóa học kéo dài 1 năm. Khi kết thúc khóa học thì học sinh có thể vào học năm 2 của Đại thêm Đi Cùng Em Qua Cơn Mưa Giăng Ngập Lối Em Làm Mây Bay Theo Anh Khắp Phương TrờiSinh viên Việt Nam có thể liên hệ đến để biết thêm thông tin chi tiết về các chương trình học ở Anh. Bên cạnh đó, các bạn cũng có thể đăng kí tham gia và ứng tuyển học bổng chương trình Đại học của các trường Anh quốc tại

so sánh giáo dục việt nam và trung quốc