"Mùa kịch Lưu Quang Vũ" năm 2022 sẽ diễn đến đến hết tháng 8 và tháng 9. Đây là sự kiện do Nhà hát Tuổi trẻ tổ chức nhằm tưởng nhớ, tri ân cặp vợ chồng nghệ sĩ tài danh Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh.
Tự sự (Quang Vũ) Dù đục dù trong, con sông vẫn chảy Dù cao dù thấp, cây lá vẫn xanh Dù người phàm tục hay kẻ tu hành Cũng phải sống từ những điều rất nhỏ. *** Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm. Đất ấp iu cho mọi hạt nảy mầm Nhưng chồi tự vươn lên tìm ánh sáng. *** Nếu tất cả đường đời đều trơn láng
Iijima became involved in campaigns to educate the public about HIV/AIDS, a cause that few Japanese celebrities were willing to undertake. On December 24, 2008 at about 3:30 p.m. (JST), Iijima was found dead in her 21st floor Tokyo apartment. Pathology examination showed she had died of pneumonia shortly after retiring from the public eye. Contents
Lưu Quang Vũ đã có những phát hiện mới mẻ về sức mạnh kì diệu của tiếng Việt: là dòng sông chảy muôn đời lưu giữ truyền thống yêu nước, nhân ái của con người Việt Nam, là biển lớn của tinh thần hoà hợp dân tộc.
0. PSO - Chiều ngày 07/8/2022 (nhằm ngày 10/7 năm Nhâm Dần), Thiền viện Tuệ Quang (phường Linh Trung, TP. Thủ Đức) đã tổ chức tiệc buffet chay từ thiện và trao tặng hơn 300 phần quà hỗ trợ bà con địa phương trong mùa Vu Lan báo hiếu 2022 - PL. 2566. Chứng minh và tham dự có ĐĐ
Nguyễn Quang Vũ *Tác giả bài thơ "Tự sự" là Nguyễn Quang Vũ ( không phải của nhà thơ Lưu Quang Vũ như nhiều người vẫn nhầm tưởng ).Tác giả viết bài thơ này khi là sinh viên trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng ,bài thơ được đăng trên báo Hoa Học Trò năm 1994
kHjyhAW.
Từ cái tên của nhà văn Lưu Quang Vũ, người viết bài này xuyên qua những tác phẩm của ông trên nhiều thể loại để đi tìm và phân tích một ý niệm và cảm giác, còn rất mơ hồ nảy sinh trong mình, rằng văn chương Lưu Quang Vũ như một dòng mưa chảy trên đất nước chúng ta những ngày nắng dữ. Dòng mưa ấy có lúc trầm buồn như tiếng than dài, có lúc ào ạt như thác đổ. Nửa thế kỷ nay, cơn mưa lành Lưu Quang Vũ đã gội rửa không thôi bụi bặm và rác rưởi của cõi đời ô trọc. Khả năng thanh lọc và tính truyền cảm lạ lùng của nỗi buồn, cũng như niềm giận dữ của cơn mưa văn chương anh không du người ta vào bóng tối mà đưa người ta đến một miền ánh Quang Vũ 1948-1988.Bài viết hình thành từ việc lần lượt hoặc luân phiên trả lời những câu hỏi sau Vì sao nhan đề bài viết là “Lưu Quang Vũ, dòng mưa ánh sáng” mà không là “Văn chương Lưu Quang Vũ, dòng mưa ánh sáng?” Vì sao là mưa mà không là gì khác? Mưa ánh sáng là gì? Dòng mưa ánh sáng Lưu Quang Vũ như thế nào? Nó mang lại những gì cho chúng ta?1. Thế kỷ XX nhiều lý thuyết văn học nói với chúng ta rằng nhà văn và văn bản của ông ta là hai thực thể không trùng khít. Nhưng có lẽ bất kỳ một khái quát nào cũng có thể không bao trùm hết mọi hiện tượng. Đôi khi ta bắt gặp những trường hợp mà nhà văn và văn bản hòa quyện vào nhau thành một khối không rời. Đó là những thiên tài mà văn chương là lá cành hoa quả bừng nở đến sững sờ trên thân cây là cuộc đời thoáng chốc giữa trần ai của họ. Với cái tên “Lưu Quang Vũ, dòng mưa ánh sáng”, bài viết này muốn chạm đến một chân dung nghệ sĩ mà kích thước của ông không dừng lại ở quy chiếu thông thường của cõi người. Người viết nghĩ rằng càng nhìn trên góc độ tự nhiên, bản mệnh và cá tính sáng tạo của Lưu Quang Vũ càng tỏ lộ. Toàn bộ văn bản đã công bố của anh sẽ được đọc và phân tích theo trình tự thời gian và theo hệ vấn đề gồm các thể loại thơ, văn xuôi, kịch bản, phê bình, phỏng vấn, nhật ký. Ở đó, sắc thái mưalà điểm là một hiện tượng tự nhiên thể hiện sự nối kết chặt chẽ liên hoàn giữa đất và trời, giữa khí và nước. Khi mắt ta nhìn thấy mưa thì đó là lúc nước từ trời rơi xuống. Dòng nước này mang lại sự sống còn, sinh sôi của đất. Trong tâm thức của nhân loại, mưa “còn là sự phong nhiêu của tinh thần, ánh sáng và các tác động tâm linh” và hơn nữa “Đức hiền minh cao cả nhất trong bản chất của một con người có thể ví với mưa” Huệ Năng[1]. Vậy thì đến với Lưu Quang Vũ, khởi đầu ý niệm mưa chỉ đơn giản là bắt nguồn từ cái tên Vũ. Đó là cái tên thiêng, vì người mang tên ấy đã thể hiện đúng bản chất và sứ mệnh mà nhân loại nhìn thấy ở mưa qua trang viết. Hơn nữa, kết hợp với họ “Lưu” và chữ lót “Quang”, cái tên như là một biểu thị rõ rành của thiên Nam nhiệt đới gió mùa nông nghiệp cần mưa “Lạy trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày…” đó là mưa trời. Việt Nam, nơi và thời Lưu Quang Vũ sống, và cho đến hôm nay, rất cần mưa hạn hán đã đến và kéo dài, từ khi con người khước từ tất cả, chỉ duy trì nơi mình cái tôi chính trị và mục tiêu chiến thắng quân thù. Đời sống rắn lại trong một thế giới lý tính và ý chí. Thời sợ xao lãng mục tiêu, sợ yếu mềm vì mơ mộng, vì niềm riêng, vì nỗi buồn cái hạn hán của xã hội đó cần những cơn mưa từ con người. Cơn mưa đó không chỉ là hình ảnh mưa xuất hiện với tần số khá cao trong thơ Lưu Quang Vũ, và có lúc là biểu tượng sống động, mà là toàn bộ những gì anh trao gửi cho chúng ta qua trang giấy. Mưa ánh sáng không còn là cơn mưa tự nhiên mà là biểu tượng về cái sáng suốt của tự nhiên. Đó là cái hiền minh tự nhiên trong trang viết của Lưu Quang Vũ, một thời bỡ ngỡ, một thời lạc loài, một thời chinh phục…Đời của anh ngắn ngủi nhưng dòng mưa của anh thì dài. Sẽ phải tái hiện từ các chặng đời của anh, và cả những chặng đời của việc tiếp nhận anh. Ở đó, có hạt mầm xanh của mưa. Ở đó có diễn trình và luân hồi của mưa. Ở đó có sắc thái của Quang Vũ - Xuân Quỳnh ảnh Tư liệu.Mưa, một thời bỡ ngỡ. Mưa, dòng nước mát thuở ban sơLưu Quang Vũ bước vào thế giới văn chương nghệ thuật rất sớm và rất tự nhiên, là xác tín không chỉ của riêng anh mà còn là của gia đình. Tài năng và kiến thức của anh đến từ gia đình, từ đời sống trực tiếp hơn là từ trường lớp. Ngay từ những bài thơ đầu tiên, phong cách thơ anh đã hình thành Về cảm hứng, thiên nhiên tràn ngập; về kỹ thuật, câu thơ thường dài 7, 8 chữ, có khi thơ tự do; nhịp điệu và âm điệu hoàn toàn nương theo cảm xúc, không hề gò bó. Có một nốt nhạc, một cái tứ nào ngân lên từ trong sâu thẳm trái tim anh và bài thơ tuôn ra tiếng rì rào của một dòng mưa ấm. Thôn Chu Hưng 1964 là bài tiêu biểu. Đó là niềm hoài cảm từ Hà Nội xa xôi, ký ức gọi về tất cả[2]. Bài thơ ứ đầy các sinh thể của tự nhiên, để rồi Lưu Quang Vũ biết chắc, một lần cho tất cả, ngọn nguồn nuôi dưỡng hồn anh và thơ anh là từ đâu [3].Từ rất sớm, Lưu Quang Vũ đã biết quan sát, lắng nghe tự nhiên và lòng mình. Có vẻ như anh tương thông với tự nhiên dễ dàng hơn là tương thông với con người. Có vẻ như anh đã nhận ra là mình khác với mọi người. Về sau này, nhiều lần anh nói lên cảm giác ấy trong thơ và trong nhật ký. Nhưng cảm giác ấy không ngăn anh bước vào đời lính, nơi phải khoác vào mình đồng phục, nơi cần khép mình vào kỷ luật. Bởi không khí hào hùng của những ngày kháng chiến chống Pháp mà gia đình anh đã trải qua thúc giục anh, cũng như không gian hoang sơ miền Phú Thọ đã nuôi dưỡng tâm hồn anh, để rồi hai nguồn cảm hứng xuất hiện Tự nhiên và Người lính. Cả đời văn của anh, tự nhiên chưa bao giờ vắng mặt. Còn người lính, có mặt trong giai đoạn văn thơ đầu đời, sẽ chuyển qua thành Người công dân lương thiện ở giai đoạn sau. Tình yêu của anh đối với Đất nước và Con người bắt nguồn từ những điều cụ thể và luôn cụ mưa thơ Lưu Quang Vũ thuở đầu đời như tên gọi Hương cây[4], nhẹ bay trong không trung và loáng ướt một lớp màu tươi tắn. Vũ trụ thì sống động với bút pháp tranh sơn dầu[5] trong khi đó con người thấp thoáng bằng các nét phác như tranh ký họa. Mẹ, những người línhvà người em bé nhỏ của tình yêu đầu đời, in dấu, nhẹ nhàng, chan chứa yêu thương và lòng biết ơn[6].Quan niệm nghệ thuật của Lưu Quang Vũ đã hình thành rất sớm, anh không đề cao óc tưởng tượng “quan trọng nhất là cuộc sống và tình cảm của người viết”, cần nuôi dưỡng cái “bát ngát, dạt dào”[7]. Tác phẩm của Lưu Quang Vũ trước sau chính là cuộc sống và tình cảm của anh, ở đó, cái bát ngát và dạt dào chưa bao giờ vắng bóng, ngay cả những ngày tâm hồn anh âm u nhất[8]. Những truyện ngắn được anh viết trong thời gian này cũng tràn đầy chất thơ. Thị trấn ven sôngphảng phất truyện ngắn hiện đại Nga. Mạch truyện tự nhiên, bình thản, chậm rãi, nhiều chi tiết của thiên nhiên và đời sống rất gợi. Trong khung cảnh thị trấn vắng vẻ miền cao, những người trẻ lặng lẽ tham gia vào nhịp sống đơn sơ và hy trình Dấu ấn Lưu Quang Vũ được phát sóng trên một thời lạc loài. Mưa, nỗi buồn nhân thếTrong không gian miền Bắc những năm chiến tranh, Lưu Quang Vũ là nhà thơ lạc loài, và trang viết của anh nhiều năm liền phải chìm trong bóng tối. Về sau này, khi xã hội cởi mở hơn, thơ anh lần lượt được xuất hiện công khai, nhiều bài nghiên cứu đã cắt nghĩa nỗi buồn trong thơ anh bằng bi kịch cá nhân của tuổi hai mươi sau khi giải ngũ, Lưu Quang Vũ thất nghiệp và hôn nhân tan vỡ. Chúng tôi đã đọc kỹ những trang nhật ký trong Di cảo Lưu Quang Vũ để nhận ra rằng, nỗi buồn và ý thức phản kháng đã xuất hiện trong anh từ ngày anh còn đi học. Từ mười lăm tuổi, anh đã nói lên những “cái không chịu được” trong nhà trường và xã hội[9]. Cái “tầm thường”, “rẻ tiền”, thậm chí “man rợ”mà anh chạm phải, làm anh mất đi niềm vui, làm anh chán ngán[10].Nhưng khát vọng sống là làm được điều gì đó tốt đẹp cho cộng đồng nơi Lưu Quang Vũ chưa bao giờ nhạt. Những cảm giác “ngột ngạt” “chán lớp đến cùng cực”[11] ấy ngày một lớn, làm thành một khắc khoải, bất bình không ngớt trong anh, cho đến ngày anh rời bỏ ghế nhà trường. Những biểu hiện không hòa đồng và cực đoan của anh bị một số bạn bè cho là thái độ “khinh người” và sau này một số nhà nghiên cứu cho là nông nổi và lầm lạc, thiếu sự phải chăng. Trước những phản ứng như vậy đã có nhiều ngày, anh tự trách mình. Đã có lúc anh tìm về Phú Thọ như để lấy lại bình an đã mất và nạp lại năng lượng. Phải chăng là anh có lỗi? Không, đọc hết các trang viết của Lưu Quang Vũ sẽ nhận ra, anh chưa bao giờ cho mình là kẻ đứng trên, kiêu ngạo anh yêu mến cả những điều nhỏ nhoi nhất của thế giới này. Anh cũng không cực đoan theo nghĩa lý tính hay là có xu hướng nhìn vào mặt xấu của con người. Anh chỉ không chịu nổi sự tầm thường, công thức, giả dối và bạo lực[12]. Từ 1964, Lưu Quang Vũ chấp nhận nỗi buồn trong mình như một lẽ tự nhiên “mày sinh ra đời không phải để vui tươi mà để suy nghĩ”[13]. Anh gọi tên nó “cái ánh sáng đầy hạnh phúc và cay đắng”[14], anh hiểu đó là ánh sáng bất tận của cuộc đời mà anh mang vác. Nhưng đó là cuộc đời-giữa-con người. Còn có một cuộc đời khác lặng lẽ, khiêm nhường, đền bù cho anh những khi có thể, đó là cuộc đời-giữa-tự nhiên[15]. Tuổi mười sáu, anh đã có những ngày vùng vẫy để tự bảo vệ, để nuôi dưỡng tâm hồn chan chứa yêu thương của mình[16]. Và như vậy, trong những ngày tưởng như bế tắc nhất, Lưu Quang Vũ cũng chưa bao giờ hết yêu thương, chưa bao giờ buông xuôi, anh đã biến tất cả thành nhiên liệu của thơ ca, để không phải chỉ vì thơ ca mà còn vì một thế giới tự do, bình an, trong bộ đội, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ là một lý tưởng lớn của rất nhiều thanh niên miền Bắc lúc bấy giờ, Lưu Quang Vũ cũng không là ngoại lệ. Năm năm trong cuộc đời quân ngũ, anh được gặp nhiều “con người đẹp đẽ” cũng như “những con người tầm thường”. Nhưng ngay sau đó đã có hai giọt rượu lớn làm tràn đầy ly rượu đời cay đắng trong anh. Cùng một lúc, anh chạm phải hai thực tại mà anh đã đặt vào đấy rất nhiều kỳ vọng đời quân ngũ và cuộc sống hôn nhân. Cảm giác lạc loài hiện rõ “Bị xếp vào loại thiếu gương mẫu trong đơn vị”; “phải làm kiểm điểm và hứa trước đơn vị là “từ nay không làm thơ nữa”; “bị coi như một người có “vấn đề” trong tư tưởng”[17]. Cảm giác có lỗi và bất lực hiện rõ Người bạn đời rời bỏ anh, đứa con trai còn quá bé bỏng. Bị giạt ra khỏi hai không gian mà mình chọn lựa với bao chờ mong, hăm hở, tin yêu, con người biết làm gì? Mà đó là con người ở tuổi đôi mươi chỉ có một khả năng rõ ràng là yêu thương và viết? Mà đó là thời những chọn lựa chỉ được phép loay hoay trong một cộng đồng xem tiếng nói tập thể là chính xác, xem sinh hoạt bao cấp là lý tưởng?Trong tình thế ấy, Lưu Quang Vũ đã đi vào đời sống, không từ nan những mưu sinh khó nhọc. Đời sống, những nơi đã đi qua lại lấp lánh, lại được chạm khắc trong thơ anh. Trạng thái trống rỗng và khủng hoảng nội tâm đi vào thơ anh. Để không bị nhấn chìm, lấm láp hay tuyệt vọng, buông xuôi, anh đã từng ngày tự nhắc “Làm việc, làm việc để chiến thắng thời gian và bóng tối”. Với tình yêu đã mất, chỉ là niềm thương xót. Với xã hội, là một dự cảm buồn “Phố ngoài kia ngột ngạt những toa tàu”.Có thể nói, những bài thơ hay nhất của Lưu Quang Vũ ra đời trong thời lạc loài, đặc biệt là 1971-1972. Cây giờ không chỉ tỏa hương, cây đã hóa nên trầm. Chưa bao giờ mà cảm thức về đời sống và tình yêu lại quyện chặt trong thơ anh đến thế. Ngày trong quân ngũ, có những đôi mắt soi vào trang viết của anh. Ngày rơi xuống đáy của nỗi buồn, có những ánh nhìn rọi vào tình yêu của anh. “Cửa sổ” của anh, “mưa” của anh, “làn sương” của anh hết thảy đã biến màu, tan nát. Chỉ còn sừng sững núi đá. Khi anh đứng giữa dòng đời, mưa đã không còn mơ hồ mà tàn nhẫn từng cơn[18]. Những bài thơ thời lạc loài đã âm thầm kết thành một dòng mưa dài chứa chất một tiếng nói bất tận về nỗi đau. Là nỗi đau xác thực mà anh nếm trải. Những nỗi đau đến từ đâu?Đó là nỗi đau từ chiến tranh. Có thể nói, Lưu Quang Vũ là nhà văn miền Bắc nói lên “nỗi buồn chiến tranh” sớm hơn tất cả. Nhiều bài thơ dài đầy chất tự sự của anh đã khắc họa rõ rành một khuôn mặt chiến tranh tàn khốc[19]. Từ trước đến sau, hình ảnh người lính trong trang viết của anh vẫn là hình ảnh đẹp, nhưng cái hào khí của chiến tranh đã mất đi rồi. Chỉ còn phơi ra một thực tại kinh hoàng[20]. Mơ mộng mà luôn quan tâm đến những vấn đề xã hội, Lưu Quang Vũ là nhà văn dấn thân, bởi cách nhìn và tiếng nói của anh một thời khác với mọi người. Thời sự in dấu trong nhật ký, trong thơ văn anh từ rất sớmHồ sơ mùa hạ 1972. Những mưu toan, những tráo trở trên trường chính trị đã đi vào thơ anh [21], cũng như vào truyện ngắn Một chuyện ở biên giới,Người đưa thư.Ngày xưa, khi mẹ kể chuyện người chết trong chiến tranh, Lưu Quang Vũ không chịu nổi, phải chạy ra ngoài[22], giờ đây, cái bạo tàn của chiến tranh dội vào anh, làm anh choáng váng. Anh tái hiện lại một Khâm Thiên tan hoang trong câu hỏi day dứt vì sao và nỗi ám ảnh không rời đau nhói[23]. Chiến tranh tất yếu sẽ dẫn đến hành động sát nhân. Nhưng ai sẽ chết? Từ năm 1968, anh đã ý thức về bi kịch của cuộc chiến tranh Nam Bắc [24] và ngày càng rõ[25]. Những ngày trong cái lò lửa hủy diệt ấy, chỉ có người chiến binh mới biết mình đã trải qua những gì[26] và cái đọng lại nơi họ là lòng ăn năn không dứt“ các anh ơi, đừng trách chúng tôi/ các bà mạ, tha thứ chúng tôi/ chúng tôi chẳng thể làm khác được”Những đứa trẻ buồn. Chiến tranh như vậy là một “quá khứ nặng nề” cần phải quên đi, vì mỗi vinh danh là một lần nhắc lại nỗi đau họ từng nếm trải, là sống lại những cơn mộng dữ đẫm máu người[27].Đó còn là nỗi đau từ những suy tư về đất nước. Lưu Quang Vũ có những bài thơ dài như cơn mưa tự nghìn xưa đổ về nhắc lại hành trình dân tộc[28]. Trong Đất nước đàn bầu, nhân vật tôi ở đây trò chuyện với ai? Có lúc người đàn ông Lạc Việt da vàng nói với toàn nhân loại. Có lúc đứa cháu bé nhỏ nói với người bà đã khuất. Có lúc chàng trai nói với người yêu… Tuyệt tác này là kết tinh cao nhất của khả năng chạm khắc, hòa âm và biểu cảm nơi Lưu Quang Vũ, như hồn nước đã nhập vào anh “Tôi nhận hết, tôi là người tiếp nối/ Là dĩ vãng nhưng chẳng là bóng tối/ Nước mắt tôi ướt đẫm những dây đàn”. Nhưng rõ ràng thay, hồn nước không chỉ là lịch sử, văn hóa, mà còn là khí thiêng của tự nhiên “Quả bầu khô là tâm sự của vườn/ Mặt đàn gỗ là của rừng xanh thẳm/ Điệu bát ngát là của đồng của đất/ Lời vụng về là tha thiết lòng tôi”. Người nghệ sĩ độc đáo Lưu Quang Vũ khiêm nhường trong dào dạt yêu thương và gắn bó với cộng đồng “Hồn dân tộc dạy ta làm thi sĩ/ Quá khứ nhiều mà ta chẳng già nua”[29]. Quá khứ ấy được dệt nên bởi những con người vô danh siêng năng làm lụng Người cùng tôi. Quá khứ ấy là một kết tinh tự nhiên qua hàng ngàn năm lịch sử, có khi hôm nay cho ta còn được niềm hy vọng. Từ đó, “Những câu thơ âm thầm/ Muốn nói hết sự thực/ Về đất nước của mình”[30]. Sự thực nào về đất nước? - Ly tán, hận thù, mê cuồng học thuyết? Như một số nhà tư tưởng phương Tây từng nói về nền văn minh lạc lối, Lưu Quang Vũ kêu gọi sự thức tỉnh để trở về. Anh nói đến một ngày đoàn viên không phân ngôi thứ, bờ ranh[31]. Một ước mơ đau đáu được nói thành lời “cái làng mới ta xây/ ở đó mọi người có quyền nói lên tất cả/ ở đó không ai làm phiền đến một con dế nhỏ” Tìm về. Dù hiểu là thời hậu chiến, mọi điều không đơn giản “biển bao la sau trận mưa dài/ sắp tới là những ngày khónhất”, nhưng nhà thơ hy vọng “những người tốt không được quyền vô dụng” và mạnh mẽ khuyến cáo “hãy im đi lời bịp bợm dối lừa/ lũ nước ngoài xảo quyệt cút ngay ra/ máu con người không phải thứ bán mua/ cái bánh vẽ không no lòng ai được/ bài học lớn của một thời đau xót/ trên hận thù nóng bỏng tàn tro”[32].Sự thực nào nữa về đất nước? Những điều trông thấy nhói lòng anh đói nghèo, trì trệ, những kiếp đời nhọc nhằn…[33]. Anh chán ngán những trang viết “Như phường bát âm thánh thót …/ chạy theo những biển hàng ngắn ngủi/ Những khuôn phép những trang in những hư danh một buổi”[34]. Anh đau đớn trước sự tàn lụi, tha hóa của con người[35].Anh kinh hoàng trước cuộc sống mọi giá trị đảo lộn[36]. Anh nhấn mạnh vai trò “người báo hiệu” trong dòng lịch sử[37]. Anh kêu gọi sự thức tỉnh để đổi thay “Những điều hôm qua tưởng tuyệt vời tốt đẹp/ Đến nay thành không đủ nữa rồi”.Anh muốn thơ dấn mình hành động“Chúng ta đi mở những cánh cửa/ Chúng ta suốt đời đi mở những cánh cửa”[38]. Như vậy, cùng với “nỗi buồn chiến tranh”, cảm hứng thế sự và đời tư cũng xuất hiện sớm trong tác phẩm Lưu Quang Vũ, so với các tác giả cùng thời. Bên cạnh thơ ca, một số truyện ngắn của anh[39], bằng cách viết rất nhẹ và thoáng, đã chạm đến những vấn đề của con người và xã hội mà hôm nay chúng ta phải đối mặt như là căn bệnh trầm kha lối giáo dục gò ép phi tự nhiên vì sĩ diện hão Nhà thơ; hiện tượng người đóng vai, rồi vĩnh viễn bị giam cầm trong lốt ấy Người kép đóng hổ; người trí thức đọc nhiều, nói hay mà ruồng rẫy vợ và vô cảm với con Con anh Mậu; người lính tha hóa trong hòa bình Người bạn cũ, Những người bạn; kẻ khôn lỏi, không có chuyên môn, thường khinh bạc, lượn lờ trong công việc và tỏ ra cao đạo, hoài nghi Anh Y; người mơ mộng, luôn muốn mang đến cái mới cho thế giới này nhưng tàn lụi vì hoàn cảnh Anh Thình; người thành thực, có khát vọng cao cả, có tài năng, nhưng “cô đơn vì không được người đời hiểu” Mùa hè đang đến... Truyện ngắn Lưu Quang Vũ thường phác ra những tình huống và những tính cách và dừng lại ở những cái kết lửng lơ. Từ khá sớm, Lưu Quang Vũ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế và pháp luật[40]. Phong cách và ý tưởng này sẽ được phát triển rõ ràng và mạnh mẽ hơn trong chỉ suy tư về dân tộc mình, Lưu Quang Vũ còn nói đến Trung Hoa trong bài thơ tự do với những nét khắc gọn, sâu, một Trung Hoa nghịch lý đầy ám ảnh. “Sáng suốt và tối tăm/ Uyên thâm và nhẹ dạ/ Cái người Tàu kỳ lạ/ Ngồi dầm củ cải giữa đêm khuya…” Ở đấy, ánh sáng trong anh nói rằng văn hóa và chính trị là khác nhau, nhân dân và triều đại có khi cách biệt. Từ đấy, anh đã vượt qua những hận thù quá khứ giữa hai dân tộc, nhưng anh băn khoăn về một biến động lở trời long đất “Dưới liễu xanh, lũ quỷ đổi thay màu/ Tiếng chiêng trống, tiếng loa gào thét/ Chín trăm triệu người ồn ào mà nín lặng/ Trung Hoa muốn gì/Nhân dân đi về đâu?”. Những vần thơ này ra đời năm 1974; với cái nhìn thấu suốt vấn đề, anh dẫn lại Tư Mã Thiên, lời cảnh báo xuyên qua trùng trùng năm tháng “Hồn bạo chúa nghiến răng trong bụi cát/ Mọi ngai vàng, theo lửa hóa tro than…” Trung Hoa[41].Mưa, kết tinh của Đất và Trời, của Khí và Nước, như người ta yêu nhauYêu thương là thiên tính của Lưu Quang Vũ, ngay cả khi anh cất lời phê phán xã hội hay kể lể về nỗi buồn trong trang viết của mình. Những khuôn mặt nữ làm anh xúc động, dù thoáng chốc hay lâu dài, cũng đều là nguồn sống của thơ anh. Lưu Quang Vũ có những duyên tình đẹp, tất cả đã trở thành vĩnh cửu nhờ thơ ca. Anh đã gặp được những người nữ thấu hiểu anh, lắng nghe anh, cả cảm xúc sáng tạo lẫn những trầm tư đời sống. Tình yêu của Lưu Quang Vũ chưa bao giờ thu lại trong vũ trụ kỳ ảo của hai người, tình yêu ấy cứ xao xác “nghĩ về đất nước nghĩ về em”[42] và điều đặc biệt nữa là không nhuốm mùi thân xác như lẽ thông thường. Tình yêu với anh, dù có những cung bậc khác nhau, nhưng luôn trong trẻo vì nó bắt nguồn từ một tương thông tinh thần bạn bè tri kỷ hơn là sự đam mê trai gái bình thường. Tuổi mười lăm mười tám, những rộn ràng của trái tim thơ dại đã in vào trang viết Lưu Quang Vũ những vần thơ đẹp. Có những bài thơ vui mà kỹ thuật và ý tứ già dặn đến ngạc nhiên[43]. Em thoáng qua và đất trời tràn ngập, nhưng từ đó đã len vào những lo âu thấp thỏm[44]. Rồi nỗi đau đầu đời của duyên tình đổ vỡ đã đến, ướp vào thơ anh hương vị cay đắng[45]. Nhưng khắc khoải nhất là khi người ta bị hút vào nhau như tri âm, tri kỷ “Như hai kẻ lạc loài nay nhận ra nhau” mà tuyệt vọng vì không thể. Vẻ đẹp của một tình yêu không toại lại càng lung linh và những dòng thơ lại càng ám ảnh “hai ta hãy là giấc mộng của nhau thôi”[46]. Những gặp gỡ thoáng chốc, cũng làm người thơ sững sờ xao xuyến[47]. Cuối cùng một tình yêu lớn, viên mãn, trọn mười lăm năm đã là bệ phóng cho tài năng Lưu Quang Vũ. Tình yêu ấy đã làm phục sinh con người “Có em, anh hiểu lại cuộc đời/ Có em, anh bắt đầu tất cả”; “Anh lại có sự tươi bền của đất. Nói với thời gian bằng sắc cỏ xanh rờn”[48]; Tình yêu mang lại bình yên, cảm giác được nương tựa, chở che[49]. Trong niềm vui mừng và biết ơn ấy, có một ước nguyện đến nao lòng ít thấy ở người đàn ông “Muốn trao em gương mặt đến tâm hồn/ Đều trong trắng, tràn đầy, thuần khiết nhất”. Cómột tôn vinh đặc biệt người nữ được yêu trở nên lớn như đất trời “Em như đất của con người”,“Trời rộng của anh ơi” và là người thầy khai sáng[50]. Lạ thay, ngay cả trong những thời khắc hạnh phúc nhất, cảm giác về bất trắc luôn đến giữa những dòng thơ Lưu Quang Vũ và sự dự báo ngày một rõ ràng hơn[51].Lưu Quang Vũ không thi hóa tình yêu, anh nói cả những thói đời trần tục, và nỗi khổ từng ngày len vào hạnh phúc[52], nhưng anh yêu thiết tha cái tâm hồn đồng điệu của người bạn tình ấy, cái dáng vẻ thân ái ấy. Yêu “cái cùng khổ cùng vui ấy”. Trong mắt anh, người tình và người bạn đời vừa có cái thăm thẳm của bầu trời, vừa có cái nhỏ nhoi cụ thể thân quen của mỗi ngày nhìn thấy. Cảm giác về khoảng trống người rời đi và cảm giác ngóng đợi người trở về đã làm nên nhiều trang thơ tình yêu mang dáng vẻ một tấm lụa đơn sơ mà màu sắc cứ lấp lánh biến ảo theo từng khoảnh khắc Em vắng đó là thời gian mà chàng thường ở nhà và nàng thường ra đi, đểsóng và bờ hoán đổi vị trí cho nhau trong thơ Xuân Quỳnh Sóng.Thơ Lưu Quang Vũ tràn đầy chi tiết, nhưng là chi tiết được liên kết bởi mạch nền tự sự nội tâm nên khi mỗi khi câu thơ tràn bờ thì thơ anh ám ảnh chúng ta. Vũ Quần Phương và nhiều người gọi anh là hồn thơ “đắm đuối”. Tôi nghĩ sắc thái ấy có lẽ chỉ dành cho thơ tình Lưu Quang Vũ những giòng mưa xói đất trắng trời, trút hết cơn bão lòng của chia xa, của nhận ra nhau mà không đến được. Nhưng trên toàn thể, thơ Lưu Quang Vũ là nhịp đập dào dạt miên man của đời trong mọi dáng vẻ và trong mọi sinh thể tự nhiên nó như tiếng rì rào của lá, tiếng trầm trầm của mưa, tiếng rộn rã của người… mà anh bắt được. Tần số của đời vô biên thì tần số của thơ anh không dừng lại. Chưa bao giờ nhân hóa tự nhiên hay quy chiếu mọi cái theo lăng kính của mình, Lưu Quang Vũ là người có tâm hồn chan hòa rộng rãi. Anh luôn tìm thấy những nhịp cầu ở muôn nơi để “Nối hạt cát với ngôi sao/ Bánh ăn và giấc mộng/ Đưa tôi tới những bến bờ chưa tới được/ Vượt khỏi mình, tôi nhập với trăm phương/ Nói lời riêng mà thấu triệu tâm hồn”[53].Rất nhất quán trong quan niệm về nghệ thuật, những xác tín trước sau của Lưu Quang Vũ có thể tìm thấy trong thơ, truyện ngắn và kịch, có khi là những tuyên ngôn trực tiếp[54], có khi là những mạch ngầm. Dạt dào cảm xúc và hình ảnh nhưng cũng tràn đầy biểu tượng, chi chít những tự sự riêng chung nhưng cũng ẩn nén nhiều trầm tư văn hóa, nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ được cấu trúc theo một logic khác, làm thành mê cung nội tâm trong vọng âm của ngoại cảnh[55]. Đọc thơ Lưu Quang Vũ thuở ban đầu, Hoài Thanh đã nhận ra là thơ anh đôi khi có nhiều đứt gãy[56]. Theo thiển ý, đó là một phong cách, nó như lớp lớp sóng dồn của một trái tim yêu thương nồng cháy, bật ra thành dòng ngôn ngữ chồng chất dung nham. Đất nước đàn bầu và Bầy ong trong đêm sâu là những bài tiêu biểu của loại logic khác này. Nó đòi hỏi người ta phải đọc rất lâu mà chưa hẳn đã lần ra hết ý thời chinh phục. Những cơn mưa xối xả trắng trời hậu chiếnNếu Phú Thọ mang đến cho Lưu Quang Vũ ngôi nhà bình an của tự nhiên thì Hà Nội đưa anh vào thế giới của văn hóa, với những sinh hoạt thị dân, trong đó không gian nhà hát có một vai trò không nhỏ. Nhật ký của anh cho thấy trong một quãng đời ngắn ngủi, Lưu Quang Vũ sống gấp nhiều lần người khác ở một nhịp điệu suy tưởng và sinh hoạt dồn nén và đa dạng. Một ngày trôi qua không làm được gì, không viết được dòng chữ nào, đối với anh là có lỗi. Tuổi mười lăm anh đã hình thành quan niệm “Đời người ta tốt đẹp không phải là vì sống nhiều năm mà là làm nhiều việc”[57]. Những đêm theo cha vào nhà hát, Lưu Quang Vũ đã bước vào thế giới của sân khấu, không chỉ như một khán giả[58]. Năm 1963, Lưu Quang Vũ đã thử viết một kịch bản ngắnTrên sân ga, vở kịch đã có những nét của phong cách kịch Lưu Quang Vũ sau này ít nhân vật; không gian, tình huống quan trọng hơn xung đột; cái kết lửng lơ cho niềm hy vọng; điểm nhấn là vẻ đẹp của những cái thoáng qua, một lần thành mãi mãi; không khí buồn man mác và cảm thức về mùa rất rõ. Năm 1980, Lưu Quang Vũ có bài thơ Em có nghe, dự báo một chặng mới của đời mình. Đó là chặng đời huy hoàng với kịch và những bài thơ ấm áp của một tài năng được đón nhận dưới ánh mặt nền tảng tinh thần là tôn vinh những điều tự nhiên, sự hài hòa và ngợi ca cái đẹp, Lưu Quang Vũ không mặn mà lắm với xung đột và không say mê những tính cách quá phức tạp. Trong khi phê phán trực diện những hiện tượng tiêu cực trong xã hội Việt Nam thời hậu chiến, kịch Lưu Quang Vũ thổi vào lòng người xem một niềm hy vọng về khả năng biến cải môi trường của con người. Được xây dựng trên những không gian gọn, những tình huống nhanh, những nhân vật không quá ác, thế mạnh của kịch Lưu Quang Vũ là chủ đề, ngôn ngữ đối thoại, chất thơ và sự hòa quyện giữa tính xã hội và tính văn chủ đề của kịch Lưu Quang Vũ là những gì? Là hệ quả của cơ chế bao cấp Tôi và chúng ta, Nếu anh không đốt lửa; là bi kịch của sự chắp vá, kết hợp phi tự nhiên, là độ chênh giữa lý tưởng/ lý thuyết và thực tại/ hiện thực, là sự phân ly giữa tâm và thân, là sự đối lập giữa duy tâm và duy vật Hồn Trương Ba da hàng thịt[59]; là sự thất bại về ảo tưởng tạo ra những con người máy theo ý mình Bông cúc xanh trên đầm lầy; là quyền làm người Quyền được hạnh phúc; là nạn cường hào ở nông thôn và hành động của người lính trẻ Lời thề thứ chín; là những oan sai đau đớn từ lỗ hổng trong quản lý xã hội Trái tim trong trắng; là nạn mua bán đề thi trong nhà trường, chạy theo thành tích Mùa hạ cuối cùng, Bệnh sĩ; là bước vấp của những người trẻ khi mới vào đời Tin ở hoa hồng; là niềm tin vào những giá trị thiêng liêng Điều không thể mất; là chọn lựa sáng suốt của những nhân vật lịch sử Ngọc Hân công chúa;… Quả thật, đó là những chủ đề có một tầm vóc lớn, kết tinh từ những suy tư dài về đất nước, dân tộc, con người, của Lưu Quang Vũ qua bao năm tháng, chúng góp phần lay tỉnh chúng ta, và dư vang của chúng sẽ còn lại rất ngữ đối thoại trong kịch Lưu Quang Vũ cực kỳ đa dạng nghiêm trang, xúc động, hài hước, châm biếm, cay đắng… gắn kết rất tự nhiên với từng vai nhân vật. Người lao động thì nói lên khát vọng bằng những cách diễn đạt mang tính hình tượng cụ thể, người lãnh đạo thì đúc kết hiện trạng bằng những lời súc tích, mang tính xác quyết. Đặc biệt, ở đấy tác giả để cho nhân vật quần chúng đối thoại cùng những nhân vật quan chức trong những tư thế rất là bình thơ tràn ngập trong kịch Lưu Quang Vũ[60], từ nhan đề cho đến không khí lạc quan, những nhân vật không thôi hy vọng và các quan hệ tình cảm đẹp đẽ. Chính yếu tố này đã làm cho các vở kịch của Lưu Quang Vũ, dù chuyển tải những thông điệp lớn về xã hội và con người, vẫn không tạo nên cảm giác nặng nề, gay gắt trong cảm hứng phê phán như nhiều tác phẩm đương thời. Cực kỳ nhạy bén với những bất ổn trong xã hội nhưng lại có một niềm tin chất ngất vào con người, bút pháp Lưu Quang Vũ thiên về xu hướng lãng mạn, nó lay tỉnh và thổi vào công chúng một ý thức công dân mạnh mẽ, một tâm thế tích cực trong mọi tình huống, một hy vọng vào tương lai và lẽ đời tốt Lưu Quang Vũ mang đến những thông điệp xã hội lớn, góp phần mở đầu cho một thời kỳ mới trong văn học Việt Nam. Luôn đứng giữa dòng, những tác phẩm của anh mang tính thời sự cao. Được xây dựng theo nguyên tắc thông tục, tính thời sự này dễ dàng nhận được sự cộng hưởng của công chúng và gây được hiệu ứng tức thì trong đời sống thực tiễn. Nhưng kịch Lưu Quang Vũ còn có một tầng vỉa khác, sâu xa hơn, đó là những thông điệp văn hóa. Tiếp tục thơ ca, anh tra vấn về tình thế của đất nước, về giá trị của cộng đồng, về lẽ sống của cá nhân, với những suy tư trong chiều kích của dân tộc và của nhân bản chất là tự nhiên. Mưa Lưu Quang Vũ, từ kết tinh tự nhiên của riêng anh, đã âm thầm, rồi bùng vỡ, tưới tắm một khoảng đời của văn học Việt. Những dòng thơ văn của Lưu Quang Vũ miên man miên man trong nỗi đau trộn lẫn niềm hy vọng về một cõi thế an hòa, cũng như mưa, dòng nối tiếp dòng, từ cao rơi xuống thấm nhuần trong đất. Dòng mưa Lưu Quang Vũ lắm khi buồn bã nhưng đó là nỗi buồn của sự tỉnh thức, nó có khả năng giúp chúng ta nhận ra sớm những điều phản lại con người, cũng như mưa thường mang lại những âm trầm nhưng mưa đã gội rửa đất trời, nuôi cây cối xanh tươi, giúp tâm hồn con người lắng mưa Lưu Quang Vũ đã mang lại cái nguồn ánh sáng của lẽ tự nhiên, của một vẻ đẹp tinh thần mà dân tộc Việt hàng ngàn năm dày công nuôi dưỡng, vậy mà có lúc dòng mưa ấy phải âm thầm, giấu giếm và sau đó bị xem như một lầm lỗi cần được bao dung. Nhưng phải chăng rồi cái tự nhiên sẽ phải trở về? Phải chăng sự có mặt của dòng mưa Lưu Quang Vũ nói với chúng ta là trong văn học Việt bao giờ cũng có những ngoại lệ, bao giờ cũng có tiếng nói lẻ loi tách khỏi bầy đàn? Và bầy đàn không phải bao giờ cũng đúng. Và cái tôi chính trị, cái tôi xã hội chỉ là một phần rất nhỏ trong mỗi người. Và đừng xem thường trực giác của người nghệ Quang Vũ là một trong số ít những nghệ sĩ Việt có khả năng vượt thoát và khả năng tiên cảm trong một hoàn cảnh xã hội đặc thù. Có thể nói, qua thơ, truyện ngắn và kịch, Lưu Quang Vũ đã đi đến cùng trong việc thực hiện tâm nguyện và quan niệm của một người nghệ sĩ dấn thân. Di sản mà Lưu Quang Vũ để lại cho chúng ta hôm nay cần được tiếp nhận và quảng bá một cách rộng rãi hơn. Kịch của anh đã bước ra thế giới và tạo được tiếng vang[61], nhưng còn thơ của anh? Tôi nghĩ, nếu được chuyển ngữ, chắc chắn thơ Lưu Quang Vũ sẽ góp vào ngôi nhà chung của nhân loại một nét đẹp mới đến từ xứ sở hình chữ S “bên bờ biển bão”[62].KỊCH BẢN SÂN KHẤU CỦA LƯU QUANG VŨKịch Dài1. Đôi bạn quê hương 19662. Sống mãi tuổi 17 19793. về đâu 19804. Mùa hạ cuối cùng 19815. Cô gái đội mũ nồi xám 19816. Người con gái trở về Trời xanh trên mái phố 19817. Những ngày đang sống 19818. Thủ phạm là ai? 19829. Cây ngọc lan của Huyền 198210. Nữ ký giả 198311. Dạ khúc tình yêu 198312. Nàng Sita 198113. Ngôi sao màu lá xanh Giòng máu trắng 198314. Hẹn ngày trở lại 198415. Nguồn sáng trong đời 198416. Bên sông Thu Bồn 198417. Tôi và chúng ta 198418. Người trong cõi nhớ 198219. Vách đá nóng bỏng 198320. Đường bay 198421. Hoa xuyến chi 198222. Hồn Trương Ba, da hàng thịt 198423. Người tốt nhà số 5 198424. Ngọc Hân công chúa 198425. Lời nói dối cuối cùng Cuội và Bờm 198526. Đất sống của người 198527. Vi khuẩn Han-Xen Hạnh phúc của người bất hạnh 198528. Đôi dòng sữa mẹ Hai giọt máu 198529. Ông vua hóa hổ 198530. Khoảnh khắc và vô tận 198631. Tin ở hoa hồng 198632. Nếu anh không đốt lửa 198633. Hoa cúc xanh trên đầm lầy34. Muối mặn của đời em35. Đam San36. Chết cho điều chưa có37. Quyền được hạnh phúc 198738. Đôi đũa Kim Giao39. Ông không phải bố tôi 198840. Linh hồn của đá41. Bênh sĩ 198842. Lời thề thứ chín43. Trái tim trong trắng Vụ án hai ngàn ngày 198844. Điều không thể mất 198845. Người bạn già 198446. Chim Sâm Cầm không chết 1988Kịch Ngắn47. Juliet không trẻ mãi48. Sống giả chết giả49. Con tò he50. Tẩy, bút chì và thước kẻ51. Ngọn gió vô hình52. Đoàn thanh tra tới53. Câu chuyện chiều cuối nămChú thích[1] Jean Chevalier - Alain Gheerbrant Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nhiều người dịch. Trường Viết văn Nguyễn Du & Nxb. Đà Nẵng, 1997, “Thôn Chu Hưng trăng sao rơi đầy giếng/ Nằm giữa bốn bề rừng rậm nứa lao xao/ Đường ven suối quả vả vàng chín rụng/ Cọ xanh rờn lấp loáng nước sông Thao”.[3] “Tôi đã có biển, có sông, nhưng con suối nhỏ vẫn là nơi yêu quý nhất” Lưu Quang Vũ Di cảo Lưu Quang Vũ, Lưu Khánh Thơ tuyển soạn. Nxb. Trẻ, 2018, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt Hương cây - Bếp lửa, Nxb. Văn học, H., 1968.[5]Áo, Thôn Chu Hưng, Phố Huyện,Mùa xuân lên núi, Phố ta, Lá bưởi, lá chanh, Mùa xoài chín…[6]Gửi tới các anh, Phủ Lý tháng Hai, Đêm hành quân, Những bông hoa không chết…[7] Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., những lúc, Những chữ…, Tôi chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn, Giấc mộng đêm, Nơi tận cùng, Những ngọn nến...[9] Nhật ký 29-5-1963 Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “lòng vẫn cứ buồn, nhìn lại lớp thấy chán quá!” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “mình không thể gò bó, nhất là phải giả dối và uốn mình nữa. Không! Tâm hồn mình không cho phép thế, thơ văn mình không cho phép thế” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., Quang Vũ Di cảo, Sđd., ký 1964, 4-4 Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “Ta đã đau khổ vô cùng vì những trò của người đời”; “Ta thật là lạ và khác mọi người, chỉ vì một việc nhỏ cũng đủ làm cho ta đau đớn ghê gớm và chỉ vì một màu xanh của luống rau cũng có thể làm cho ta vui suốt cả ngày trời” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 85, 86.[16] “Đừng để những chuyện đốn mạt của phố phường Hà Nội che lấp tâm hồn mày đi” Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., Vũ Thị Khánh “Lưu Quang Vũ, cuộc đời và năm tháng”, trong Lưu Khánh Thơ biên soạn Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ…, Sđd., lớn lên cửa sổ thay màu …/ Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều/ Rách tan cả những làn sương đẹp phủ/ Chỉ còn lại nỗi buồn trơ núi đá/ Điều em tin là nhảm nhí mà thôi Gửi một người bạn gái. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, H., 2010, vội một đêm 1972, Em, Khâm Thiên, Cơn bão, Những đứa trẻ buồn,...[20] “thời bạo tàn lửa cháy khắp nơi/ những thây người gục ngã/ những nhịp cầu sụp đổ/những toa tàu rỗng không …/ thù hận mênh mông mặt đất bùn lầy” Em. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 247.[21] “khi người ta mặc cả máu người/ thay tình nghĩa như thay áo lót” Em I. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 278-282.[22] Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “đêm qua tôi đã chết/ với hàng ngàn mạng người/ từ than bụi tôi hiện hình trở lại/ mang đau thương đến trọn cuộc đời…Khâm Thiên. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “Bạn cùng làng mỗi đứa một phương/ Kẻ lính ngụy, người thành quân giải phóng” Mùa xoài chín. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., “một bên là con trai Thanh Hóa, Thái Bình/ một bên là con những bà mẹ Thừa Thiên, Phan Thiết/ những sinh viên Sài Gòn/ những sĩ quan Đà Lạt/ những đội quân mang tên dã thú/ những tiểu đoàn không còn sót một ai/ những mô đất con đổi bằng mạng trăm người” Cơn bão. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 332.[26] “heo may cỏ lạnh rừng chiều/ ngàn lau rụng trắng/ những đứa trẻ buồn ướt lạnh/ đường dài mặt trận nối nhau đi …/ lòng chỉ muốn yêu thương/ mà cứ phải suốt đời căm giận”; “bên kia đồi gianh khét lẹt/ quân thù cháy giữa vòng vây/ mấy gã tù binh ngồi khóc/ run run những cánh tay gầy”; “nỗi buồn trĩu nặng/ dâng lên như đá trên mồ” Những đứa trẻ buồn. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 334-337.[27] “hãy quên chúng tôi đi/ để chúng tôi được yên lặng trở về/ để chúng tôi được hóa thành bụi đất/ thành mưa rào trên xứ sở yêu thương” Cơn bão. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 333.[28]Đất nước đàn bầu, Bài ca trên bán đảo, Sông Hồng, Sông Hồng - hồi ức của một nghĩa binh già, Sông Hồng - năm mẹ sinh em, Sông Hồng - lời từ giã của Trung đoàn Thủ đô,…[29]Đất nước đàn bầu. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi,Sđd., tr. 35-36.[30]Liên tưởng tháng Hai. Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu, Sđd., “cùng làng chẳng nhận ra nhau/ thờ những vị thần xứ khác/ nghe lời kẻ ác/ súng đạn người bắn thịt xương ta/ đào huyệt hận thù/ chia miền cắt đất/ tin những chữ không hồn trong sách/ tìm kiếm mãi đâu xa/ nào hay mình có một làng quê”; “hôm nay tất cả hãy về/ lối cũ bờ đê/ những mắt bàng hoàng sau kính trắng/ những binh lính áo quần vằn vện/ những tướng già tóc bạc/ những kẻ lãng du những hồn uất hận/ anh em ruột thịt cầm tay/ lạy mẹ lạy thầy/ chúng con hư để thầy mẹ khổ/ từ nay chẳng tham lam mê muội nữa/ súng đạn người ném trả/ oán thùđổ xuống ao sâu”. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 350, 351.[32]Những đám mây ban sớm. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., tr. 357, 358.[33]Ngã tư tháng Chạp, Những tuổi thơ, Ghi vội một đêm1972,Viết lại một bài thơ Hà Nội, Những người bạn khuân vác, Việt Nam ơi. Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu,Sđd., tr. 19-20, 24-25, 26-27, 28-31, 90-92.[34]Nói với mình và các bạn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sđd., 104.[35] “Nhà văn xưa tôi yêu mến mê say/ Nay lão già được chính quyền sủng ái/Lưng còng xuống quên cả lời mình nói/Phản bội những điều trong cuốn sách thiêng liêng” Hoa Tigôn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sđd., “Mọi chuyện thiêng liêng thành nhảm nhí/ Khắp nơi trí trá lọc lừa nhau” Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Sđd.,tr. 134.[37]Người báo hiệu. Lưu Quang Vũ Di cảo, Sđd., 257.[38]Liên tưởng tháng Hai. Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu,Sđd., Lưu Quang Vũ 15 truyện ngắn, Lưu Quang Hiệp sưu tầm, thực hiện. Nxb. Hội Nhà văn, H., 1994.[40] “Cả một thế hệ nhiệt thành, cả một dân tộc nhiệt thành, như sóng biển dâng lên ào ạt. Nhưng sau đó khi sự nghiệp đã thành đạt, để đừng xảy ra những hỗn loạn lại là việc của cơ chế. Phải có pháp luật, đúng thế, phải có pháp luật nghiêm minh…” Những người bạn. Lưu Quang Vũ 15 truyện ngắn, Sđd., Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi,Sđd., tr. 56.[42]Mùa xuân lên núi, Chiều, Vườn trong phố, Em I, Cho Quỳnh những ngày xa.[43]Bài thơ khó hiểu về em, Chiều,Vườn trong phố.[44]Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa.[45]Từ biệt, Anh chẳng còn gì nữa…, Ngã tư tháng Chạp.[46] Qua những bài thơ Gửi Hiền mùa đông, Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên I, II, III; Vẫn thơ tình viết về một người đàn bà không có tên; Không đề; Lá thu; Quả dưa vàng; Gửi; Em - tình yêu những năm đau xót và hy vọng…[47] Trong những bài thơ Ngọn lửa đen, Dù cỏ lãng quên, Phút em đến.[48]Chiều chuyển gió và Nửa đêm nỗi nhớ. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., 48.[49]Và anh tồn tại. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., “Em dạy anh cái nhìn thật của đời”, “Em dạy cho anh biết mơ ước biết tin” “Em trả lại cho anh hơi thở, dáng hình … Em giải thoát cho anh khỏi cô đơn lầm lỗi” Những ngày chưa có em….Lưu Quang Vũ Bầy ong trong đêm sâu,Sđd., tr. 100-101.[51] “Phút cuối cùngtay vẫn ở trong tay/ Ta đã có những ngày vui sướng nhất/ Đã uống cả men nồng và rượu chát/Đã đi qua cùng tận của con đường/ Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt” Bài hát ấy vẫn còn là dang dở…. Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., Qua Nhà chật, Những ngày hè cuối, Một bài thơ.[53] Lưu Quang Vũ Mây trắng của đời tôi, Sđd., “Mọi người quanh ta mang nỗi khổ oằn vai/ Ngực đất nước tai ương xé rách/ Ta viết mãi những điều vô ích…/ Tôi không muốn viết những lời như thế …/ Tôi viết những bài thơ chống lại chính tôi/ Chống lại bóng đêm trì trệ của đời …/ Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật/ Đập vào ngực ta không cho ta cúi mặt/ Không cho ta lảng tránh/ Đập cửa mọi nhà/ Đứng ở mọi ngã ba” Nói với mình và các bạn. Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi,Sđd., tr. 102, 103.[55]Những ngọn nến, Bài hát trong một cuốn phim cũ, Cuốn sách xếp nhầm trang, Chiều cuối, Cầu nguyện, Móng tay trên đá, Những chiếc lá rơi,Hoa cẩm chướng trong mưa.[56] Hoài Thanh “Một cây bút trẻ nhiều triển vọng”. Tạp chí Văn học, số 12, 12/1966, Lưu Quang Vũ Di cảo,Sđd., Năm 1963, trong nhật ký, anh ghi 1963 xem chèo đã thích. Xem kịch, nhận ra tình yêu và nhan sắc là hai cảm hứng lớn cho kịch Lưu Quang Vũ Di cảo,Sđd., Phạm Vĩnh Cư đã phân tích những tầng nghĩa, rất chi tiết và rất hay xem Phạm Vĩnh Cư “Lưu Quang Vũ, Bi hùng kịch và bi hài kịch”, trong Lưu Quang Vũ – Về tác gia và tác phẩm, Sđd., Lưu Quang Vũ đã nói lên điều này qua bài phỏng vấn “Chất thơ là linh hồn của kịch”, rất xác quyết và súc tích xem Lưu Quang Vũ – Về tác gia và tác phẩm, Sđd., Trương Ba, da hàng thịtdự liên hoan sân khấu Liên Xô, năm 1990, được đánh giá xuất sắc; năm 1998, diễn ở Mỹ; năm 2002 được dựng lại và công diễn ở Anh với tên "The Butcher's Skin".[62] Lưu Quang Vũ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi,Sđd.,
Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Bài viết "Yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ" nghiên cứu những phương diện biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ. Yếu tố tự sự được thể hiện trên nhiều phương diện như nhan đề bài thơ, hình thức câu thơ, ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ, sự gia tăng các yếu tố kể sự trong cấu trúc trữ tình bài thơ. Mời các bạn cùng tham khảo. Chủ đề Nghiên cứu Văn họcThơ Lưu Quang VũYếu tố tự sựTác giả Lưu Quang VũNgôn ngữ thơ Nội dung Text Yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ ThS. Huỳnh Thị Diệu Duyên Trường Đại học Phú Yên Tóm tắt Bài viết nghiên cứu những phương diện biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ. Thơ Lưu Quang Vũ, yếu tố tự sự được thể hiện trên nhiều phương diện nhan đề bài thơ, hình thức câu thơ, ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ, sự gia tăng các yếu tố kể sự trong cấu trúc trữ tình bài thơ... Không chỉ tăng cường chất hiện thực cho thơ, yếu tố tự sự còn góp phần quan trọng tạo nên chiều sâu suy tư, tính chiêm nghiệm và chất triết lí của thơ Lưu Quang Vũ. Đồng thời, trình hiện một cái Tôi đầy trăn trở, suy tư về nhân sinh, thế sự; một cái Tôi dũng cảm, thành thật trên hành trình đi tìm cái Đẹp của con người, cuộc đời. Từ khóa tự sự, Lưu Quang Vũ, thơ Lưu Quang Vũ. 1. Đặt vấn đề Lưu Quang Vũ 1948 – 1988 là một trong những cây bút tài năng của văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX. Trong sự nghiệp cầm bút ngắn ngủi của mình, tác giả họ Lưu khiến người ta kinh ngạc bởi khả năng lao động và sức sáng tạo dồi dào của bản thân hơn năm mươi kịch bản kịch, hàng trăm bài thơ, hàng chục truyện ngắn và bài viết chân dung các diễn viên, nghệ sĩ. Trong những thể tài sáng tác đó, Lưu Quang Vũ đến với thơ sớm nhất. Cũng từ rất sớm, với tập thơ Bếp lửa – Hương cây 1968, in chung với Bằng Việt, nhà thơ đã ghi dấu tên mình vào đội ngũ những gương mặt trẻ nổi bật của thơ chống Mĩ, và sau này là, thơ thời hậu chiến. Thơ Lưu Quang Vũ, dù trước hay sau năm 1975, là loại thơ giàu chất tự sự. Tự sự trở thành một trong những đặc điểm tiêu biểu và là yếu tố quan trọng kết tinh giá trị thơ Lưu Quang Vũ. 2. Tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ – một số phương diện biểu hiện Trong thơ Lưu Quang Vũ, tự sự xâm nhập một cách đa diện vào cấu trúc trữ tình của thể loại. Trên bề mặt văn bản, phương diện đầu tiên, dễ tri nhận nhất, chính là nhan đề bài thơ. Khảo sát thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều bài thơ mang nhan đề giàu tính tự sự. Chằng hạn như, Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn, Đêm hành quân, Chuyện nhỏ bên sông, Em sang bên kia sông, Buổi chiều đón con, Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa… Ở những nhan đề này, lượng thông tin được chứa đựng không phải là cảm xúc, tâm trạng, lí tưởng, chí hướng…của nhân vật trong tác phẩm hoặc của chính tác giả mà là kể/tả về một sự kiện, một cảnh tượng, một trạng huống nào đó. Có lẽ, chính bởi vậy mà, so với dạng nhan đề truyền thống của thơ trữ tình, nhan đề tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn có những nét riêng về hình thức và cấu tạo. Có khi, nhan đề vượt thoát khỏi khuôn hình súc tích, ngắn gọn để đạt đến sự “dài dòng”, tựa như lời nói thông thường Đêm Đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn, Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà, Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa…; Cũng có khi, nhan đề được cấu tạo là một câu, hoặc hoàn chỉnh ngữ pháp Em sang bên kia sông, Người con giai đến phòng em chiều thu…, hoặc khuyết thiếu ngữ pháp Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa, Buổi chiều đón 1 con…; Và nhiều khi, nhan đề là một cụm từ mang sức gợi về một câu chuyện, một thực tại khách quan Giấc mơ của anh hề, Hải Phòng- mùa đông, Hồ sơ mùa hạ 1972, Những người đi năm ấy… Lí luận văn học đã chỉ ra rằng, nhan đề - với tư cách là yếu tố cận văn bản - có ý nghĩa như một mã nghệ thuật, dẫn lối người đọc vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Nó không chỉ là kí hiệu thông thường mà là “kí hiệu trung tâm, châu tuần mọi lớp nghĩa được biểu đạt, nghĩa tiềm ẩn của thi phẩm”1. Đồng thời, nhan đề còn là nơi thể hiện dự đồ nghệ thuật của văn bản, cho đọc giả biết trước nội dung văn bản, cách đọc và tiếp nhận văn bản…Xuất phát từ những cơ sở lí luận này, có thể khẳng định, việc đặt nhan đề mang tính tự sự không hẳn là sự ngẫu nhiên của vô thức sáng tạo mà là sự lựa chọn có chủ đích của nhà thơ họ Lưu. Dường như, nhà thơ - thông qua việc đặt nhan đề - hướng đến sự phá vỡ những ranh giới của thể loại nhằm mở rộng biên độ của thi phẩm. Đối với nhà thơ, thơ không chỉ là sự tự biểu hiện mà còn trần thuật; không chỉ hướng vào nội tâm mà còn khắc họa những thực tại khách quan của cuộc đời. Mặt khác, nhan đề mang tính tự sự là một tín hiệu thẩm mĩ phản ánh đặc điểm nổi bật của thơ Lưu Quang Vũ chất tự sự xen lẫn với chất trữ tình, đắm đuối. Ví như bài thơ Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn. Bài thơ gây ấn tượng bởi đầy ắp những chi tiết kể sự Gió hú gầm gào qua gạch vỡ Người chết vùi thân dưới hố bom Kẻ sống vật vờ không chốn ở Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường Hay Mọi chuyện thiêng liêng thành nhảm nhí Khắp nơi trí trá lọc lừa nhau … Tối đen thành phố đêm lưu lạc Máy bay giặc rít ở trên đầu khiến cho tác phẩm không chỉ là lời giãi bày, thổ lộ tâm trạng buồn, thương, nghẹn ngào khi tiễn biệt bạn mà hơn thế nữa, khắc họa một cách chân thực tình cảnh “nước Việt đói nghèo thân cơ cực/ Đất hẹp trụi trần vạn khổ đau”. Lòng thương bạn, cũng vì thế, hòa vào niềm thương nhà thương nước khắc khoải, đớn đau của nhà thơ. Tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ còn được biểu hiện ở sự gia tăng tính sự kiện trong thơ. Các yếu tố kể sự, do đó, cũng xuất hiện thường trực trong các sáng tác thơ. Có thể nói, mỗi bài thơ của nhà thơ, dù bắt nguồn từ cảm hứng tình yêu hay quê hương, đất nước, vẫn luôn hàm chứa ít nhất một sự kiện trong đó. Song, nếu như trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp… có hẳn một câu chuyện có cốt truyện, nhân vật có ngôn ngữ, có tính cách tương đối đầy đặn thì ở thơ Lưu Quang Vũ, phần lớn sự kiện là những khoảnh khắc, những lát cắt của hiện thực. Không có xung đột, không có cốt truyện, không có nhân vật được xây dựng với những tính cách cụ thể, sinh động. Mạch tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ được hình thành nên bởi những câu chuyện nhỏ, những hình ảnh quen thuộc 1 Trường ĐHSP Hà Nội 2016, Kí hiệu học – từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Nxb Giáo dục, 2 thường ngày. Khi thì là chuyện ngụy trang bằng những cành bưởi cành chanh thơm nồng hương vị quê nhà Giữa giờ chiến đấu Mẹ già em bé trong thôn Đã bẻ cả cây vườn Cả cành chanh cành bưởi Đem tới làm ngụy trang cho bộ đội Lá bưởi lá chanh Khi là chuyện mẹ tiễn cha lên đường ra trận Trên bến sông này một chiều năm ấy Mẹ tiễn cha đi bộ đội Tiếng súng đồn Tây ngơ ngác hoàng hôn Con rô sục bùn, con vạc kêu sương Cha lội tắt qua dòng nước lạnh Một nắm cơm đùm, một manh áo rách Ngẩng lên trời một mảnh trăng non Chuyện nhỏ bên sông Khi lại là cảnh những đứa trẻ chạy trốn giữa giấc ngủ đêm Đêm ấy bom rơi chúng choàng thức dậy Đứa theo mẹ dắt em, đứa ôm chặt tay bà Đứa ôm làn xách bọc chạy sau xe Lật đật vừa đi vừa ngủ gật Khu nhà vắng trẻ con … Trong những câu thơ trên, lối trữ tình, thi vị hóa cảm xúc, ngoại cảnh thường thấy của thơ trữ tình dường như “biến mất”. Thay vào đó là các yếu tố thông báo, những chi tiết kể sự tỉ mỉ, gián cách, tưởng như có thể kể lại theo lối văn xuôi. Trong thơ Lưu Quang Vũ, yếu tố sự kiện, nhìn chung, tồn tại với hai dạng thức cơ bản. Dạng thức thứ nhất, đó là những sự kiện tồn tại khách quan, mang ý nghĩa tự thân, nhà thơ chỉ ghi chép lại một cách khách quan, trung thực Người lính đưa tin trên mình ngựa lao về Đêm gió bấc bốn bề đen thẳm Làng im ngủ dưới mịt mù sương lạnh Con ngựa chồm lên đứng sững Tung bờm dữ dội hí ran Người báo hiệu Hay Sớm hoà bình đầu tiên Người lính già ngồi nhớ Những báo phát tin đi Các phóng viên ngoại quốc Chen chúc bao lơn khách sạn Tò mò chụp ảnh Trẻ con nước Nam bồng bế nhau cười Lũ tù binh ném bom Sung sướng về Tổ Quốc 3 Tàu thả mìn đi vớt mìn… Liên tưởng tháng hai Dạng thức thứ hai là những sự kiện gắn liền với trải nghiệm của nhà thơ, ít nhiều mang tính chất cá nhân, riêng tư. Lời kể, vì vậy, mang dáng dấp lời tự thuật Năm tôi mười bảy tuổi Mẹ bảo tôi Mày lớn rồi phải tự sống đi thôi Nhà nghèo đông em mẹ không nuôi hết được Tôi đi nhờ tàu thủy từ Hòn Gai Ra Hải Phòng tìm việc Những bạn khuân vác Hay Tôi trở về ngồi trong lòng bà Bà kể chuyện thời con gái Trốn nhà theo anh trai phường vải Gánh hát chèo tỉnh Đông Đất nước đàn bầu Với việc đưa sự kiện vào thơ, thơ Lưu Quang Vũ cũng đồng thời ghi nhận sự xuất hiện của yếu tố trần thuật trong thơ. Điều đặc biệt là, điểm nhìn trần thuật từ phía nhân vật gần như vắng bóng trong thơ thi sĩ họ Lưu. Trong khi đó, người trần thuật ở ngôi thứ nhất xuất hiện một cách thường trực và là chủ thể điểm nhìn trần thuật chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ. Hình tượng người trần thuật ngôi thứ nhất có sự biến hóa đa dạng, sáng tạo tôi, ta, chúng ta, anh, em. Dù định danh bằng những đại từ xưng hô khác nhau song đều là tiếng nói của nhà thơ. Lựa chọn điểm nhìn trần thuật của chính bản thân, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã thực hiện một cuộc dấn thân đầy bản lĩnh nghệ thuật, bản lĩnh văn hóa của một người nghệ sĩ luôn khao khát chạm đến tận cùng sự thật. Dù cho đương thời, sự thật ấy là vùng “cấm kị” và người nghệ sĩ, có khi, phải trả giá bằng chính sinh mệnh văn chương, sinh mệnh bản thân mình. Tôi, ta, chúng ta… là người trần thuật trung thực, quyết liệt phơi bày những cảnh tượng trần trụi, khốc liệt trên trang giấy cuộc chiến tranh dằng dặc rừng đầy muỗi độc chiến hào lở loét khói bom những đôi giày thủng đầy bùn những tấm vải mưa ướt sũng những con vắt đói chui vào lưng lá thư nhà đọc mãi đến thuộc lòng đêm trắng sương lùa củi tắt Những đứa trẻ buồn Hay Gió hú ầm ào qua gạch vỡ Người chết vùi thân dưới hố bom Kẻ sống vật vờ không chốn ở Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường 4 Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm, bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn Đồng thời, tự gián cách bản thân với sự kiện một cách triệt để, khiến cho tự sự trong thơ mang tính chất của khách thể hóa. Biểu hiện cụ thể là, thế giới khách quan với các sự kiện, hiện tượng không được nhà thơ mô tả hoặc kể lại theo định hướng của tâm lí, cảm xúc mà được đồng hóa bởi những chi tiết thông báo gọn, sắc, tác động mạnh vào ấn tượng người đọc. Từ đó, gợi mở những khả năng biểu đạt vượt thoát khỏi trường biểu cảm cảm xúc thông thường, vốn có của thơ trữ tình. Mặt khác, trong thơ Lưu Quang Vũ, lối trần thuật thường được tiến hành một cách linh hoạt, đa dạng. Nhà thơ thường sử dụng những từ, cụm từ, câu…đóng vai trò dẫn dụ, gợi mở vào câu chuyện sắp được kể. Chẳng hạn như - Chiều ấy các anh đi Nắng nhạt vàng hoe gốc rạ Gửi tới các anh - Như ngày thơ nhỏ Có cây bưởi cạnh cầu ao Mấy gốc chanh ven hàng rào Bưởi chín về mùa thu Chanh sai về mùa hạ Me chăm gốc nhiều nên ngon quả. Lá bưởi lá chanh Và cũng có khi trần thuật theo lối “đánh thẳng” - thành phố nửa đêm chạy giặc trăng đỏ ngầu trong tiếng ve sôi những đoàn người hối hả dắt nhau đi tay xách vai còng gánh nặng cửa ô chật nghẽn tiếng còi giục người la Hồ sơ mùa hạ, 1972 gây cảm xúc ngỡ ngàng, choáng ngợp cho người đọc. Bên cạnh những yếu tố trên, ngôn ngữ, giọng điệu và hình thức thơ cũng là những phương diện biểu hiện chất tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ. Về hình thức thơ, có thể thấy, thơ Lưu Quang Vũ phần lớn là những bài thơ tự do, tự do không vần. Trên bề mặt văn bản, câu thơ co duỗi, xô lệch - Nửa đêm, những con tàu Thả neo ngoài cảng Ngôi nhà cũ đã tan Vì một thói quen Tôi vẫn khoá cửa cất chìa khoá vào túi Hải Phòng, mùa đông - thành phố nửa đêm chạy giặc trăng đỏ ngầu trong tiếng ve sôi những đoàn người hối hả dắt nhau đi tay xách vai còng gánh nặng cửa ô chật nghẽn tiếng còi giục người la Hồ sơ mùa hạ 1972 5 hoặc có khi vắt dòng, phá vỡ khuôn thức truyền thống một dòng thơ một câu thơ - Thượng Hải giăng đèn đón tổng thống Ních-sơn nguyên soái Diệp Kiếm Anh uy nghiêm tóc bạc đưa khách quý thăm chiến khu cách mạng tổng thống Mỹ lệ nhòa khóc oan hồn em bé Ta-nhi-a Hồ sơ mùa hạ 1972 - sân ga mù mịt khói bay chủ xưởng chủ đồn điền bước lên tàu ủ rũ những bà đầm tay ôm chó bông những viên đội xếp tồi tàn lếch thếch ba toong hòm xiểng Năm 1954 Điều này không chỉ mở rộng khả năng phản ánh cho thơ mà quan trọng hơn, đưa lời thơ về gần hơn với lời nói thông thường cũng như gia tăng chất văn xuôi cho câu thơ trữ tình. Lúc bấy giờ, tự bản thân sự kiện sẽ quyết định độ dài ngắn của câu thơ. Nhịp điệu bên ngoài được tạo nên từ vần điệu cũng được giảm thiểu, nhường chỗ cho một loại nhịp điệu khác, tiến gần hơn đến bản chất thi ca, nhịp điệu bên trong – thứ âm nhạc của nội tâm, của chính bản thân sự kiện, hiện tượng - cổng chào lá kết đèn treo cánh trắng bồ câu lấp loáng đêm pháo hoa vụt sáng lời ca bồng bột ngây thơ “dân Liên Xô vui hát đồng hoa” điệu múa sạp từng bừng sân khấu rộng Năm 1954 - Thị xã dựng những khung nhà mới Trên dãy tường đổ nát mùa đông A B C tiếng trẻ học vỡ lòng Cỏ trên những nấm mồ xanh nõn Lá ướt cây bàng lao xao chim hót Những mảnh bom của hai cuộc chiến tranh Han gỉ trong bùn Phủ Lý tháng hai Hình thức thơ này không phải là sáng tạo của nhà thơ Lưu Quang Vũ. Song, nếu đặt những câu thơ kể sự trên bên cạnh những câu thơ của Hồng Nguyên Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến Nhớ - Hồng Nguyên Hay thơ Chế Lan Viên 6 Mậu Thân hai nghìn người xuống đồng bằng Chỉ một đêm, còn sống có ba mươi. … Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ ! Ai ? Tôi ! - Chế Lan Viên sẽ thấy tính chất khác hẳn của hình ảnh thơ Lưu Quang Vũ, mới mẻ hơn và đi xa hơn về phía trước. Nhà thơ Lưu Quang Vũ sử dụng một cách đa dạng các hình thức câu thơ trong sáng tác của mình. Câu kể xen lẫn với câu tả, câu hỏi, tạo nên giọng điệu thơ giàu chất tự sự - Ông chủ quán đã già Mặt vàng vọt và tay xương run rẩy Cô con gái vẫn ngồi trong bóng tối Đã có chồng và tay đã xấu nhiều đi Chiếc máy hát rè rè Bài hát cũ nghẹn không thành tiếng được Quán cà phê ngoại ô - Ngoài kia đường dài lấp loáng đèn pha Đẫm bùn nhão xe băng ra mặt trận Người đi người đi như dòng sông vô tận Áo ướt đầm, lòng cháy nỗi yêu nhau Đồng đội ơi, đêm nay anh về đâu? Thức với quê hương Trên phương diện ngôn ngữ, ngôn ngữ trong thơ Lưu Quang Vũ có xu hướng đời thường hóa, mộc mạc và đơn giản, gần với ngôn ngữ đời sống thường ngày - Khuya lắm rồi, vừa đổi xong phiên gác Mưa rào rào nằm ngoài không ngủ được Thức với quê hương - Những cô gái chắc đã tàn tạ cả Lũ trẻ nhỏ ngụp chìm trong đạn lửa Bao nấm mồ nằm lại những đồi hoang Thị trấn biển Chính kiểu ngôn ngữ này đã mở đường cho chất tự sự ùa vào trong thơ nhà thơ họ Lưu. Nó khước từ gần như triệt để sự mĩ lệ của ngôn ngữ thi ca để chuyển tải trọn vẹn tính chất “văn xuôi” của những sự kiện được kể lại trong thơ. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà câu thơ Lưu Quang Vũ mất đi sự mềm mại, trong sáng. Ngược lại, bên cạnh chức năng kể sự, chúng còn hé mở thế giới nội tâm nhiều trăn trở, suy tư của nhà thơ. Lựa chọn ngôn ngữ đời thường là một ứng xử nghệ thuật của Lưu Quang Vũ mà qua đó, cho phép tri nhận về một nhà thơ “chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh” mà là “những sự thật buồn cười mà khủng khiếp”. 3. Giá trị thẩm mĩ của yếu tố tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ 7 Trong bài thơ “Nói với mình và các bạn”, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã xác lập quan niệm thơ Thơ phải dạy ta nhìn bằng con mắt thật Đập vào ngực ta không cho ta cúi mặt Không cho ta lảng tránh Đập cửa mọi nhà Đứng ở mọi ngã ba Không hát ta say mà lay ta thức Dù ngày mai đời có trăm lần đẹp Thơ vẫn gọi mọi người vươn đến tương lai. Xuất phát từ quan niệm này mà nhà thơ, trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, luôn khao khát “nói hết sự thực/ về đất nước mình”. Yếu tố tự sự, do đó, đã giúp cho Lưu Quang Vũ và thơ Lưu Quang Vũ thâm nhập một cách sâu sắc vào đời sống hiện thực xã hội. Với lối tự sự khách thể hóa, ngòi bút thơ Lưu Quang Vũ sống đến kiệt cùng những chiều kích, những bức tranh chân thực của thực tại đang hiện hữu xung quanh - một thực tại như nó vốn có và đang có, không phải thực tại mà con người muốn có. Chính bởi vậy mà, thơ Lưu Quang Vũ luôn phơi bày hiện thực - thứ hiện thực tàn nhẫn, khắc nghiệt của một đất nước thời chiến - những người chết trong đêm thân gãy nát óc chảy ròng trên gạch những người chết cháy đen miệng há mắt mở trừng tay chân vặn vẹo thịt xương lòng ruột mắc trên dây điện phố Khâm Thiên ầm ầm đổ sụp tiếng người la khủng khiếp đêm dài Khâm Thiên - những đoàn người lảo đảo kéo đi như cơn mê cơn sốt mắt đói mở trừng trán gầy đen lõm ăn hết củ rào lộc sung nõn chuối ăn cả thằn lằn chuột bọ cái đói dày vò cắn xé nhục nhã kinh hoàng điên dại Sông Hồng - năm mẹ sinh em Nói cách khác, nhà thơ không mĩ hóa hiện thực mà trung thực trước những mất mát, đau thương. Phẩm chất này khiến cho thơ Lưu Quang Vũ trở thành tiếng thơ “ngược dòng” với thi ca đương thời. Bản thân nhà thơ trở thành một gương mặt “cá biệt” trong đội ngũ những nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Nhà thơ dường như đã tách biệt hẳn khỏi dàn đồng ca của thời đại mà sống và viết với những nhận thức, những trải nghiệm, những quan sát của riêng bản thân mình. Như trên đã phân tích, tự sự là một trong những đặc điểm cơ bản của thơ Lưu Quang Vũ. Dõi theo quá trình sáng tác ngắn ngủi của nhà thơ, chúng tôi nhận thấy sự vận động trong tính thống nhất cơ bản đó. Nếu ở tập thơ Hương cây 1968 - những vần thơ đầu tay của một cây bút trẻ vừa nhập cuộc với tất cả 8 những khát khao, hoài bão, lí tưởng tươi sáng, chất tự sự quyện hòa trong mạch cảm xúc nồng nàn, rạo rực, say mê Sớm tháng tám bay trên trời thủ đô Cờ trên cánh thêm đỏ bừng sắc thắm Nhìn xung quanh mây bỗng nõn trắng Ôi có phải rồng lên trên Thăng Long? Những chuyến bay Những câu chuyện được kể trong Thôn Chu Hưng, Qua sông Thương, Đêm hành quân, Chuyện nhỏ bên sông…gắn liền với cuộc sống chiến đấu, với lí tưởng của “lứa tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ thì xa xôi biết mấy cũng lên đường” thì từ sau tập thơ Hương cây trở đi, những mất mát của đời riêng cộng hưởng với hiện thực mất mát, đau thương chung của dân tộc trong chiến tranh, tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ càng trở nên đậm đặc hơn và đạt đến một chiều kích mới. Tự sự trong thơ Lưu Quang Vũ, giờ đây, dung dị và chân thực hơn rất nhiều Những áo quần rách rưới Những hàng cây đắm mình vào bóng tối Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ Lèo tèo mì luộc canh rau Việt Nam ơi Nhưng cũng đồng thời, đầy trăn trở, hoài nghi, băn khoăn Có những lúc tâm hồn tôi rách nát Tôi biết làm gì tôi biết đi đâu Có những lúc Mặt khác, tự sự trong giai đoạn đầu sáng tác thơ của Lưu Quang Vũ gắn liền với đặc trưng sử thi và quá trình sử thi hóa nền văn học cách mạng. Đây là một hiện tượng mang tính đặc thù, phổ biến của thi ca Việt Nam nửa sau thế kỉ XX. Thể tài lịch sử - dân tộc là nguồn cơn thúc đẩy thơ trữ tình dung nạp mạnh mẽ yếu tố tự sự vào thơ nhằm thể hiện bức tranh đời sống và nêu lên những vấn đề có ý nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ở thơ Lưu Quang Vũ, ngoài chịu sự ảnh hưởng của cái chung, sự dung nạp yếu tố tự sự vào thơ bắt nguồn ngay từ chính nhu cầu nội tại, quan niệm nghệ thuật của nhà thơ. Bằng chứng là, khi nhà thơ thôi viết những vần thơ “lửa cháy”, khi thơ ca của anh mang tính chất phi sử thi rất rõ nét thì yếu tố tự sự chẳng những không mất đi mà ngược lại, càng triển nở sâu sắc. Thơ Lưu Quang Vũ, do vậy, là loại thơ giàu chất hiện thực, là “hồ sơ lịch sử” của một thời đại hào hùng nhưng đau thương của dân tộc, của mỗi số phận con người trong thời đại ấy. Không chỉ giúp nhà thơ thâm nhập sâu sắc vào các sự kiện đời sống xã hội bên ngoài, yếu tố tự sự còn tạo nên cuộc đối thoại chân thành của nhà thơ với chính mình và với những người xung quanh. Từ đó, giúp nhà thơ khám phá chiều sâu tâm hồn con người, khám phá chính bản thân mình. Thơ Lưu Quang Vũ, có rất nhiều những cuộc đối thoại nảy sinh. Song, đối thoại trong thơ anh thường chỉ diễn ra một chiều và là những đối thoại câm -Bây giờ anh ở đâu Những người đi năm ấy Lìa đất quê Hà Nội 9 Mười chín mùa tha hương ? Những người đi trong đêm Đèn mở ga Hàng Cỏ Như bầy chim rời tổ Trong nỗi buồn di cư. Những người đi năm ấy - Đứa trẻ nhà ai bỗng khóc thét lên Ôm chầm lấy anh dưới cầu thang tối Đừng sợ, bé em ơi, đừng sợ hãi Chúng ta cần phải sống Làm chứng nhân tấn kịch thảm thê này Ghi vội một đêm 1972 Không chỉ đối thoại hướng ra bên ngoài, nhà thơ Lưu Quang Vũ còn hơn một lần đối thoại với chính mình trong thơ - ta đã qua bao phố làng đổ sụp cổ nghẹn lòng thù hận nhìn bao em bé mồ côi mà sao chiều nay giết xong quân giặc chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm chỉ nỗi buồn trĩu nặng dâng lên như đá trên mồ Những đứa trẻ buồn - Ta là ai? Ta đến làm gì? Bài hát trong một cuốn phim cũ Những cuộc đối thoại này, bao giờ, cũng xảy ra trên một cái nền tự sự. Chúng vừa làm vỡ ra những thực tại mới vừa thức gợi những suy nghĩ, những dự cảm. Điều đáng quý là, sau tất cả những mất mát đau thương, những lần chứng kiến sự thật trần trụi của cuộc sống, Lưu Quang Vũ lại càng gắn bó tiếng thơ của mình hơn với nhân dân, gắn bó cuộc đời mình hơn với dân tộc. Trong thơ anh vang lên những vần thơ đắm đuối với tổ quốc - Tôi làm sao sống được nếu xa Người Như giọt nước bậu vào ngọn cỏ Như châu chấu ôm ghì bông lúa Người đẩy tôi ra tôi lại bám lấy Người Không vì thế mà Người khinh tôi chứ Việt Nam ơi. Việt Nam ơi - Ước chi được hoá thành ngọn gió Để được ôm trọn vẹn nước non này. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi Và đạt đến chiều sâu triết lí - Dù con người là cô đơn Cái ác là dầy đặc Mỗi bài thơ của chúng ta 10 Phải như một ô cửa Mở tới tình yêu Ở đó lòng ta Ra với mọi người Ở đó mọi người Đi tới bên nhau. Liên tưởng tháng hai - kẻ làm chứng trung thành trước phiên toà lịch sử giữa tột cùng đau khổ đâu dám ngồi trau chuốt mỗi câu thơ nhân danh cuộc sống, nói về cái chết nhân danh niềm vui, nói về nước mắt nhân danh tình yêu, tôi mãi mãi căm thù. Khâm Thiên Có thể khẳng định, yếu tố tự sự đã nâng bước cho sự trưởng thành của hồn thơ Lưu Quang Vũ. 4. Kết luận Tự sự là một trong những đặc điểm cơ bản cũng đồng thời là đặc điểm nổi bật của phong cách thơ Lưu Quang Vũ. Trong thơ Lưu Quang Vũ, tự sự đã vượt qua ranh giới thể loại để cùng với trữ tình, tạo nên những câu thơ chân thực, ám ảnh nhưng đầy suy tư, trăn trở. Các yếu tố tự sự, trong một chừng mực nào đó đã làm thay đổi kết cấu bên ngoài của thơ Lưu Quang Vũ song giá trị sâu sắc nhất mà nó mang lại chính là trình hiện một cái Tôi đầy trăn trở, suy tư về nhân sinh, thế sự; một cái Tôi dũng cảm, thành thật trên hành trình đi tìm cái Đẹp của con người, cuộc đời. Thời gian càng lùi xa, thơ Lưu Quang Vũ càng ánh lên những vẻ đẹp nhân văn sâu sắc là vì vậy. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Thị Hồng Hoa 2003, Thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ, Trường ĐHSP TP HCM, HCM. 2. Trường ĐHSP Hà Nội 2016, Kí hiệu học – từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên cứu và dạy học Ngữ văn Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Nxb Giáo dục. 3. Lưu Quang Vũ 2017, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, Nxb Nhã Nam, Hà Nội. 11
… Ta hay cho rằng cuộc đời méo mó/ Sao không tròn ngay tự lương tâm/ Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm/ Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng/ Nếu tất cả đường đời đều trơn láng/ Chắc gì ta đã nhận ra ta/ Ai trong đời cũng có thể tiến xa/ Nếu có khả năng tự mình đứng dậy/ Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy/ Không chỉ dành cho một riêng ai!Những ngôn từ trong bài thơ Tự sự của Lưu Quang Vũ rất bình dị, có sức ám ảnh nghệ thuật rất lớn truyền tải đến người đọc về một nhân sinh quan tích cực. Chỉ qua hai câu thơ đầu “Ta hay cho rằng cuộc đời méo mó/ Sao không tròn ngay tự lương tâm”, ta thấy giọng thơ mang âm hưởng trách móc nhẹ nhàng. Sự đối xứng của các ngôn từ Méo mó/tròn - cuộc đời/lương tâm mang tính ẩn dụ sâu sắc có tính phê phán để mà chiêm nghiệm. Không dừng ở chỗ chê trách, nhà thơ lại chỉ ra cho ta cái nhìn về cuộc đời thực tế hơn thông qua một điều theo quy luật của tự nhiên “Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm”. Đất không của riêng cho một hạt mầm mà “mọi hạt mầm” cũng như cuộc sống trong đời này không dành cho một người mà cho tất cả chúng ta nếu muốn sống tốt, sống có ý nghĩa thì phải biết “Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”. Cổ nhân đã từng nói “Ví phỏng đường đời bằng phẳng hết/ Anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Lưu Quang Vũ đã khéo léo thay cách nói ấy bằng những vần thơ giàu chất tự sự “Nếu tất cả đường đời trơn láng hết/ Chắc gì ta đã nhận ra ta”. Giọng thơ từ tự sự thâm trầm chuyển sang cầu khiến gợi mở cho ta biết cách vào đời và biết cách tồn tại “Ai trong đời cũng có thể tiến xa/ Nếu có khả năng tự mình đứng dậy”. Đọc đến đây ta có cảm giác như nhà thơ muốn mượn lời dạy của đức Phật “Các con hãy tự thắp đuốc lấy mà đi” để khắc sâu ý tưởng của khép lại bài thơ với cách diễn đạt mang tính thuyết minh, nhà thơ trải lòng mình để gửi gắm bao điều về quan niệm hạnh phúc mà theo tác giả là hạnh phúc cuộc đời mình chính do mình tạo ra bằng nghị lực của bản thân “Hạnh phúc cũng như bầu trời vậy/ Không chỉ dành cho một riêng ai”.Cám ơn nhà thơ Lưu Quang Vũ đã để lại cho đời một thông điệp về lẽ sống giàu chất triết lý nhưng được thể hiện bằng một chất giọng tâm tình nhỏ nhẻ, và những ngôn từ bình dị có sức lan tỏa và thấm sâu vào lòng người, đặc biệt cho thế hệ trẻ trong thời đại mới ngày Học Đà Nẵng
Lưu Quang Vũ là một tài năng thơ bẩm sinh rất đặc biệt và độc đáo. Những đóng góp của Lưu Quang Vũ cho sự phát triển của thơ hiện đại là khá đa dạng. Nó không chỉ nằm ở bình diện phát hiện các vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ mà sự đóng góp ấy còn thể hiện ở việc khắc họa chiều sâu những rung động suy tư của tâm trạng con người trong đời sống hiện Quang Vũ có một người em gái hiền thảo và tận tụy, người đến hôm nay vẫn lặng lẽ đứng sau lo lắng, chăm sóc tất cả mọi việc in ấn, xuất bản, phát hành và tổ chức giới thiệu các tác phẩm của anh đến với công chúng yêu thơ cả cần mẫn chăm lo di cảoNgười chăm lo cho di cảo văn học của Lưu Quang Vũ là Tiến sĩ Ngữ văn Lưu Khánh Thơ hiện đang công tác ở Viện Văn học. Suy nghĩ về nghề văn, Lưu Khánh Thơ tâm sự “Tôi may mắn được sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu thích văn chương. Các thành viên trong gia đình tôi đều mang nợ văn chương từ trong huyết quản. Văn chương cũng như yêu, làm cho con người phong phú và giàu có hơn. Nó giúp cho ta được sống nhiều cuộc đời trong một kiếp sống hữu hạn. Có nhiều cách để thể hiện yêu và niềm đam mê đối với văn chương. Tôi chọn cho mình con đường luôn đi tìm kiếm và phát hiện những giá trị và vẻ đẹp văn chương đích thực. Tôi hạnh phúc với sự lựa chọn của mình, tuy không phải bao giờ cũng đi được tới đích”.Sinh trưởng trong một gia đình có ba nhà văn nổi tiếng nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận cha, nhà thơ Lưu Trùng Dương chú và nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ anh ruột, đến nay, Lưu Khánh Thơ là người thứ tư của gia đình trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trong số gần chục tác phẩm đã xuất bản của Lưu Khánh Thơ, có những cuốn rất đáng chú ý như Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại; Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, yêu và sự nghiệp; Lưu Quang Vũ, thơ và đời; Lưu Quang Thuận - thơ và sân khấu; Xuân Diệu - Về tác giả, tác phẩm; Lưu Quang Vũ - di cảo, nhật ký và thơ…Đến nay, 22 năm sau cái mất đột ngột của gia đình nhà thơ Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và bé Mí mùa thu năm 1988, bạn bè văn chương và báo giới cả nước đã dành nhiều trang viết trân trọng về cuộc đời, sự nghiệp thi ca chói sáng và yêu của họ. Trong đó, phải kể đến việc lưu giữ, biên soạn, in ấn cả một khối lượng khá lớn di cảo thơ ca, kịch bản sân khấu, truyện ngắn, nhật ký của Lưu Quang Vũ do Lưu Khánh Thơ thực hiện cần mẫn suốt mấy chục năm qua với cả mấy ngàn trang sách đã được công bố. Công việc này dường như cũng đã khiến cho chị và gia đình dịu bớt nỗi đau mỗi khi nghĩ về số phận khắc nghiệt của một tài năng lớn như Lưu Quang Lưu Khánh Thơ đã từng giãi bày “Thời gian đã làm được nhiều việc. Nó xoa dịu những nỗi đau tưởng chừng không thể chịu đựng nổi. Nó sàng lọc những điều còn mất và lưu giữ trong ký ức nhiều dấu ấn không thể phai mờ. Số phận khắc nghiệt đã không cho Lưu Quang Vũ kịp sống hết những năm tháng ngắn ngủi của đời mình. Anh kết thúc cuộc đời ở tuổi 40. Những năm tháng ngắn ngủi của đời mình, anh đã sống, đã yêu, đã làm việc hối hả như một bó đuốc rừng rực cháy. Điều duy nhất an ủi những người thân của anh, khi anh nằm xuống, đó là cảm yêu mến của bạn bè, độc giả đối với anh…”.Năm 2010, Lưu Khánh Thơ và gia đình đã biên soạn, xuất bản tập thơ Gió và yêu thổi trên đất nước tôi tập hợp đầy đủ nhất những bài thơ còn trong di cảo của Lưu Quang Vũ. Tập thơ này ngay sau đó đã được Hội Nhà văn Hà Nội trao giải “Thành tựu thơ” để ghi nhận những đóng góp của Lưu Quang Vũ. Theo tôi, thơ của anh trong tập này vẫn mang vẻ đẹp lạ kỳ của ngôn ngữ thơ mang tính đặc thù của riêng Vũ với những câu thơ xuất thần đậm nét tài hoa và giàu cảm xúc. Những câu thơ vang lên trong tâm tưởng người đọc một nhạc điệu đầy xúc động với những thi ảnh được chọn lọc một cách tinh tế và giàu tính hội Quang Vũ là một tài năng thơ bẩm sinh rất đặc biệt và độc đáo. Những đóng góp của Lưu Quang Vũ cho sự phát triển của thơ hiện đại là khá đa dạng. Nó không chỉ nằm ở bình diện phát hiện các vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ mà sự đóng góp ấy còn thể hiện ở việc khắc họa chiều sâu những rung động suy tư của tâm trạng con người trong đời sống hiện câu thơ tài hoa và ám ảnhKhông chỉ có những tìm tòi về mặt hình thức nghệ thuật, Lưu Quang Vũ đã đổi mới bản chất đời sống của thơ bằng chính những cảm nhận về cuộc đời trầm luân, khó nhọc này bằng những suy tưởng đớn đau và nhân bản về một thế giới đang phải tự hàn gắn những đổ vỡ sau những đêm dài chiến tranh và xung đột bạo một bài thơ Lưu Quang Vũ viết từ những năm 70 của thế kỷ trước với nhan đề Tưởng tượng về một bài hát đề cập tới sự suy tưởng của nhà thơ về một thế giới đang đổ vỡ vì bạo lực với những hình ảnh đau cho đến thập niên đầu của thế kỷ XXI này, những câu thơ ám ảnh về một thế giới đang đổ vỡ của nhà thơ Lưu Quang Vũ lại hiện về trong tâm tưởng chúng ta, khi trong thực tế các cuộc chiến tranh sắc tộc và tôn giáo đang nhấn chìm trong máu - lửa một phần hành tinh này “Bây giờ/ Hai đạo quân đã giết hết nhau/ Tiếng trống cuối cùng đã bặt/ Người ngựa đều ngã gục/ Chỉ còn con quạ xám đậu trên bờ/ Bây giờ/ Thành Cổ Loa đã mất/ Trước mặt là biển rộng/ An Dương Vương tóc bạc phơ/ Lưỡi gươm đưa/ Lòng ngọc trai máu thắm/ Bây giờ/ Người sao Hoả mắt đèn pha/ Lưỡi dài bạch tuộc/ Đã tràn xuống đen ngòm mặt đất/ Cánh tay ai/ Mọc trên tường đá rắn/ Ai giấu dao găm trong áo choàng/ Đi giữa những hình ma-nơ-canh/ Những xe hơi điên cuồng/ Tay chắp lại như đòi như cầu khẩn/ Điệu dân ca mềm mà đau đớn/ Bây giờ/ Rừng đen mặt nạ sắt/ Vắng hoang trong mưa rào/ Nằm xóng xoài cô gái nước da nâu/ Hoa cúc xuyên qua miệng/ Bây giờ/ Em trụi trần dưới vòm cây tối đen/ Ngực đồi trăng ướt đẫm/ Tay chập chờn lửa sáng/ Nhưng đã muộn lắm rồi ôi muộn lắm/ Vực sâu đã mở ra/ Chôn cả lời trăng trối của mùa thu/ Một chiếc lá khổng lồ đỏ thắm”.Với một cái nhìn tiên tri như trên, Lưu Quang Vũ bằng linh cảm vô thức của một nhà thơ lớn đã dự báo trước một đổ vỡ, một thảm họa của thế giới này, điều mà có lẽ ở thời điểm viết bài thơ trên, ông cũng khó cắt nghĩa nổi vì sao mình lại có những suy tưởng lạ lùng và đau đớn đến thơ Việt thời gian qua, không ít những bài thơ vui rất giả, rồi buồn cũng rất giả. Ngôn ngữ thơ ấy như một thứ hàng rởm làm người đọc hết sức khó chịu và phải quay lưng. Phải chăng độc giả của thơ ngày một ít đi cũng bởi lẽ ấy. Hơn ba thập niên đã trôi qua, biết bao bài thơ con người đã xoá quên, đã loại khỏi trí nhớ ngần ấy năm đi qua, kỳ lạ thay, không ít bài thơ vẫn còn nguyên giá trị nhân văn, với sức lay động lòng người da diết, vẫn hội nhập được với đời sống tinh thần con người hôm nay. Và những bài thơ còn lại của Lưu Quang Vũ viết từ những năm 70 cho đến giờ vẫn không chịu cũ, vẫn có được những cảm xúc được chia sẻ nơi độc giả, vẫn làm rung động một thế hệ mới “Chiếc cốc tan không thể khác đâu em/ Anh nào muốn nói những lời độc ác/ Như dao cắt lòng anh như giấy nát/ Phố ngoài kia ngột ngạt những toa tầu/ Tiếng bán mua tiếng cãi chửi ồn ào/ Những nhà cửa nhỏ nhoi những mặt người bụi bẩn…”.Thơ của Lưu Quang Vũ có một giọng thủ thỉ tâm giấu chất tự sự như vậy. Ông kể lại bằng ngôn ngữ của thơ những xúc động, những phát hiện, những ghi nhận của mình trong cái chuỗi ngày mệt mỏi và lận đận. Và điều ấy đã làm nên một phong cách Lưu Quang Vũ không thể trộn lẫn “Những dòng thơ giằng xé giầy vò/ Là mây trắng của một đời cay cực/ Vượt lên trên những mái nhà chật hẹp/ Em - em là mây trắng của đời tôi/ Em nơi đâu bao năm tháng qua rồi/ Người ta bảo rằng em đã chết/ Người ta bảo quên đi đừng phí sức/ Hãy chấp nhận những vách tường có sẵn/ Em làm gì có thật mà mong…”.Lưu Quang Vũ là một tài năng thơ bẩm sinh rất đặc biệt và độc đáo. Bản năng thi sĩ của ông giàu có trong những nỗi buồn, trong nỗi cô đơn và khổ hạnh. Khi bị dồn vào chân tường, trong những khoảnh khắc chập chờn sáng tối, những vần thơ ám ảnh của ông tung bứt lên như muốn đối mặt với buồn đau. Nhưng ông là một người yếu đuối và đa cảm, bởi thế yêu và thi ca như một cứu rỗi còn lại qua những dằn vặt u day dứt, trăn trở trước cuộc đời đã để lại không ít vết thương trong trái tim nhà thơ. Sự khắc nghiệt của cuộc sống mà anh phải nhìn thấy, phải nếm trải, phải hứng chịu đã dội đập vào thơ anh đến tức ngực, nhưng cũng đã làm thơ anh bừng tỉnh “Có những lúc tâm hồn tôi rách nát/ Như một chiếc lá khô, như một chồng gạch vụn/ Một tấm gương chẳng biết soi gì/ Một đáy giếng cạn khô, một hốc mắt đen sì/ Trời chật chội như chiếc lồng trống rỗng/ Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu/ Tôi chẳng còn điếu thuốc nào/ Đốt lên cho đỡ sợ/ Yếu đuối đến cộc cằn thô lỗ/ Tôi xấu xí mù loà như đứa trẻ mồ côi/ Tôi chán cả bạn bè/ Mấy năm rồi, họ chẳng nói được câu gì mới/ Tôi bỏ ra đi họ ngồi ở lại/ Tôi đi một mình trong phố vắng ban đêm/ Tôi chẳng dám về gian phòng nhỏ của em…”.Có lẽ những năm qua chúng ta chưa đánh giá đầy đủ những đóng góp của Lưu Quang Vũ cho nền thơ hiện đại. Theo tôi, anh là một gương mặt thơ tiêu biểu và chói sáng lặng lẽ qua thời gian bên cạnh những gì mờ nhạt và thiếu sức sống ngôn ngữ. Những đóng góp của Lưu Quang Vũ cho sự phát triển của thơ hiện đại là khá đa dạng, nó không chỉ nằm ở bình diện phát hiện các vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ mà sự đóng góp ấy còn thể hiện ở việc khắc họa chiều sâu những rung động suy tư của tâm trạng con người trong đời sống hiện đại. Tôi biết có một giáo viên toán cấp III ở Hà Nội đã về hưu, là bạn cùng thời với Lưu Quang Vũ, hễ cứ ngồi đàm đạo thơ ca lại rưng rưng đọc những câu thơ say đắm, buồn thương của Vũ một bạn ấy cho rằng Khi đã nhớ những câu thơ ấy rồi thì khó mà nhớ thêm được ít câu thơ nào đó của những người cùng thế hệ với Lưu Quang Vũ. Có thái quá chăng? nhưng chỉ cần với những người yêu thơ mình như vậy, Lưu Quang Vũ với những giá trị sáng tạo mà ông để lại cho cuộc đời chắc còn sống mãi cùng thời gian
tự sự lưu quang vũ